webtretrau
Member
Văn học thể hiện cho đời sống tâm hồn của một đất nước, con người nơi ấy, việc thiếu vắng chữ viết có phải lý do khiến người Việt Nam khó khăn trong việc duy trì bản sắc văn hóa, khiến cho đời sống tâm hồn người dân thiếu mất chiều sâu?
Đánh mất bản sắc nên người Việt dễ bị ngả hết về bên này (Sau khi nhà Minh diệt chủng văn hóa, nước ta dần bị phụ thuộc vào Nho Giáo, điển hình sau thời nhà Lê thì Nho Giáo mới có cơ hội chiếm ưu thể, ảnh hưởng lên đời sống của người Việt) rồi lại ngả sang bên kia (thời Pháp đô hộ và đến tận bây giờ nhiều người cuồng phương Tây đến mức phủ nhận tất cả giá trị của đất nước), không có tý nào là chất riêng, là bản sắc dân tộc.
Như các anh cũng biết, ngày xưa các cụ phải dùng chữ Hán vì không có chữ viết (hoặc có mà đã bị xóa bỏ do sự đô hộ), nhưng đó chỉ là thiểu số vì phần lớn người Việt không đón nhận loại chữ này, vì vậy những tư liệu thể hiện cho đời sống tâm tư, tình cảm, tinh hoa và trí thức Việt không được ghi chép lại cũng như phổ biến một cách rõ ràng (đổi lại người Việt không bị đồng hóa), thay vào đó chúng ta chỉ có những câu truyện dân gian tồn tại thông qua phương pháp truyền miệng, được người dân yêu thích, đón nhận và lưu trữ vì nó phù hợp với thị hiếu tầng lớp bình dân vốn chứa nhiều cảm tính.
Vì vậy có thể thấy trong các tác phẩm văn học dân gian của người Việt thể hiện cho một đời sống tâm hồn mang nặng cảm tính, ít giá trị suy tư, đúc kết còn những tinh hoa thì cứ dần mai một vì nó không phù hợp với thị hiếu của quần chúng nhân dân.
Mù chữ, đó có thể nói là cái nạn lớn nhất của dân tộc này. Mãi sau này đến khi có chữ Nôm, nhiều nhà trí thức như cụ Hàn Thuyên ra sức phổ biến, kêu gọi nhưng người Việt vẫn không đón nhận, chỉ đến khi có chữ quốc ngữ, cách tiếp cận đơn giản, việc học được rút gọn lại thì người Việt mới thực sự xóa nạn mù chữ, lòng yêu nước mới được đánh thức, mối quan tâm về sự tồn vong của dân tộc mới được trỗi dậy, chứ trước đó chúng ta là một dân tộc chỉ có cái tình chứ không có cái lý, không quen với khuôn khổ, văn bản và chữ viết.
Bây giờ có chữ viết rồi thiết nghĩ việc cộng đồng cùng chung tay sưu tầm, ghi chép lại những giá trị tinh túy của người Việt là một việc quan trọng, cũng quan trọng như đánh giặc, giữ nước. Vì một đất nước không có văn hóa, chỉ là một đất nước còn cái xác, không có cái hồn.
Chữ viết và văn học là công cụ để lưu trữ cũng như phổ biến những điều quý giá, những tâm tư, tình cảm, những giá trị văn hóa, triết học ảnh hưởng đến đời sống tâm hồn con người, ngày xưa chúng ta không có chữ viết, số lượng người dân mù chữ quá nhiều nhưng bây giờ mọi thứ đã thay đổi, đời sống của chúng ta đã ấm no và đầy đủ, chúng ta đã tiếp cận với cả hai nền văn hóa Đông-Tây, quan trọng nhất chúng ta đã có chữ viết riêng của dân tộc, thể hiện lại tâm tư,, suy nghĩ, tiếng nói của dân tộc ta, toàn dân gần như đã xóa nạn mù chữ.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để tìm lại những giá trị tinh túy của người Việt, phục dựng nó lại như những hệ thống chặt chẽ, phổ biến vào trong dân chúng, vì không có con đường nào tiếp cận tất cả nhân dân nhanh hơn bằng con đường văn hóa, văn học, tín ngưỡng, tâm linh, vì chúng như máu và thịt, như thể xác và tâm hồn của một con người, các cụ ngày xưa có lẽ vì ý thức được điều này nên đã lồng ghép nhiều yếu tố lịch sử, chính trị vào trong tín ngưỡng, tôn giáo, giúp cho người Việt tồn tại được đến ngày hôm nay mà không bị đồng hóa.
Nhưng những giá trị tinh hoa chứa đựng trong chúng cứ dần mai một, văn hóa của người Việt nhiều khi chỉ còn xót lại những lễ nghi mà mất giá trị tinh túy chứa đựng trong nó. Người ta chỉ gạn lấy cái cặn, còn cái chất thì đổ đi.
Điển hình như Đạo Mẫu không có một bản văn thư nào ghi chép lại hệ thống tư tưởng một cách rõ ràng mà mỗi nơi hiểu một kiểu, ngả về hướng tín ngưỡng tâm linh nhiều hơn, nhưng dù khó khăn như thế, người Việt không phải là một dân tộc không có tố chất, vì rõ ràng vẫn có rất nhiều nhà sĩ giả, nhân sĩ, tu sĩ để lại những áng văn thư chứa đựng nhiều tác phẩm thể hiện đời sống tâm hồn, đời sống văn hóa, triết học thăng hoa như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, cụ Nguyễn Trãi, cụ Trần Nhân Tông (sơ tổ thiền phái Trúc Lâm)....
Mỗi tội là chúng ta đã đánh mất một điều gì đó, một cái nền tảng cốt lõi nào đó để đưa tất cả người dân cùng hướng về những điều cao cả, cũng biết suy nghĩ cho những điều sâu xa, sống với một niềm khao khát tri thức.
Người Việt sống quá tình, suy xét mọi việc không dưới con mắt lý luận, phải trái, đúng sai vì vậy những tiêu cực cứ mãi tồn tại không thể nào loại bỏ, chẳng hạn hôm rồi tôi xem vụ anh Grab này đỗ xe ở hồ gì đó ở gần quán nước của một bà chị, bị đuổi đánh thì anh này quay clip lại đăng lên trang tài xế Grab, thay vì ủng hộ cho hành động đòi lẽ phải, đòi cái lý của anh Grab thì không ngoài dự đoán, tất cả comment đều rủa xả, đại để bảo anh Grab này cố chấp, ngu dốt, lỳ lợm vì không chịu hiểu "luật ngầm".
Với một cộng đồng thỏa hiệp như thế làm sao chúng ta có thể chống lại tiêu cực ngay từ trong gốc rễ, từ tâm can của mỗi người dân chúng ta? Các anh nghĩ thế nào? Người Việt có phải sống quá tình, vô lý và nhận thức kém không?
Đánh mất bản sắc nên người Việt dễ bị ngả hết về bên này (Sau khi nhà Minh diệt chủng văn hóa, nước ta dần bị phụ thuộc vào Nho Giáo, điển hình sau thời nhà Lê thì Nho Giáo mới có cơ hội chiếm ưu thể, ảnh hưởng lên đời sống của người Việt) rồi lại ngả sang bên kia (thời Pháp đô hộ và đến tận bây giờ nhiều người cuồng phương Tây đến mức phủ nhận tất cả giá trị của đất nước), không có tý nào là chất riêng, là bản sắc dân tộc.
Như các anh cũng biết, ngày xưa các cụ phải dùng chữ Hán vì không có chữ viết (hoặc có mà đã bị xóa bỏ do sự đô hộ), nhưng đó chỉ là thiểu số vì phần lớn người Việt không đón nhận loại chữ này, vì vậy những tư liệu thể hiện cho đời sống tâm tư, tình cảm, tinh hoa và trí thức Việt không được ghi chép lại cũng như phổ biến một cách rõ ràng (đổi lại người Việt không bị đồng hóa), thay vào đó chúng ta chỉ có những câu truyện dân gian tồn tại thông qua phương pháp truyền miệng, được người dân yêu thích, đón nhận và lưu trữ vì nó phù hợp với thị hiếu tầng lớp bình dân vốn chứa nhiều cảm tính.
Vì vậy có thể thấy trong các tác phẩm văn học dân gian của người Việt thể hiện cho một đời sống tâm hồn mang nặng cảm tính, ít giá trị suy tư, đúc kết còn những tinh hoa thì cứ dần mai một vì nó không phù hợp với thị hiếu của quần chúng nhân dân.
Mù chữ, đó có thể nói là cái nạn lớn nhất của dân tộc này. Mãi sau này đến khi có chữ Nôm, nhiều nhà trí thức như cụ Hàn Thuyên ra sức phổ biến, kêu gọi nhưng người Việt vẫn không đón nhận, chỉ đến khi có chữ quốc ngữ, cách tiếp cận đơn giản, việc học được rút gọn lại thì người Việt mới thực sự xóa nạn mù chữ, lòng yêu nước mới được đánh thức, mối quan tâm về sự tồn vong của dân tộc mới được trỗi dậy, chứ trước đó chúng ta là một dân tộc chỉ có cái tình chứ không có cái lý, không quen với khuôn khổ, văn bản và chữ viết.
Bây giờ có chữ viết rồi thiết nghĩ việc cộng đồng cùng chung tay sưu tầm, ghi chép lại những giá trị tinh túy của người Việt là một việc quan trọng, cũng quan trọng như đánh giặc, giữ nước. Vì một đất nước không có văn hóa, chỉ là một đất nước còn cái xác, không có cái hồn.
Chữ viết và văn học là công cụ để lưu trữ cũng như phổ biến những điều quý giá, những tâm tư, tình cảm, những giá trị văn hóa, triết học ảnh hưởng đến đời sống tâm hồn con người, ngày xưa chúng ta không có chữ viết, số lượng người dân mù chữ quá nhiều nhưng bây giờ mọi thứ đã thay đổi, đời sống của chúng ta đã ấm no và đầy đủ, chúng ta đã tiếp cận với cả hai nền văn hóa Đông-Tây, quan trọng nhất chúng ta đã có chữ viết riêng của dân tộc, thể hiện lại tâm tư,, suy nghĩ, tiếng nói của dân tộc ta, toàn dân gần như đã xóa nạn mù chữ.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để tìm lại những giá trị tinh túy của người Việt, phục dựng nó lại như những hệ thống chặt chẽ, phổ biến vào trong dân chúng, vì không có con đường nào tiếp cận tất cả nhân dân nhanh hơn bằng con đường văn hóa, văn học, tín ngưỡng, tâm linh, vì chúng như máu và thịt, như thể xác và tâm hồn của một con người, các cụ ngày xưa có lẽ vì ý thức được điều này nên đã lồng ghép nhiều yếu tố lịch sử, chính trị vào trong tín ngưỡng, tôn giáo, giúp cho người Việt tồn tại được đến ngày hôm nay mà không bị đồng hóa.
Nhưng những giá trị tinh hoa chứa đựng trong chúng cứ dần mai một, văn hóa của người Việt nhiều khi chỉ còn xót lại những lễ nghi mà mất giá trị tinh túy chứa đựng trong nó. Người ta chỉ gạn lấy cái cặn, còn cái chất thì đổ đi.
Điển hình như Đạo Mẫu không có một bản văn thư nào ghi chép lại hệ thống tư tưởng một cách rõ ràng mà mỗi nơi hiểu một kiểu, ngả về hướng tín ngưỡng tâm linh nhiều hơn, nhưng dù khó khăn như thế, người Việt không phải là một dân tộc không có tố chất, vì rõ ràng vẫn có rất nhiều nhà sĩ giả, nhân sĩ, tu sĩ để lại những áng văn thư chứa đựng nhiều tác phẩm thể hiện đời sống tâm hồn, đời sống văn hóa, triết học thăng hoa như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, cụ Nguyễn Trãi, cụ Trần Nhân Tông (sơ tổ thiền phái Trúc Lâm)....
Mỗi tội là chúng ta đã đánh mất một điều gì đó, một cái nền tảng cốt lõi nào đó để đưa tất cả người dân cùng hướng về những điều cao cả, cũng biết suy nghĩ cho những điều sâu xa, sống với một niềm khao khát tri thức.
Người Việt sống quá tình, suy xét mọi việc không dưới con mắt lý luận, phải trái, đúng sai vì vậy những tiêu cực cứ mãi tồn tại không thể nào loại bỏ, chẳng hạn hôm rồi tôi xem vụ anh Grab này đỗ xe ở hồ gì đó ở gần quán nước của một bà chị, bị đuổi đánh thì anh này quay clip lại đăng lên trang tài xế Grab, thay vì ủng hộ cho hành động đòi lẽ phải, đòi cái lý của anh Grab thì không ngoài dự đoán, tất cả comment đều rủa xả, đại để bảo anh Grab này cố chấp, ngu dốt, lỳ lợm vì không chịu hiểu "luật ngầm".
Với một cộng đồng thỏa hiệp như thế làm sao chúng ta có thể chống lại tiêu cực ngay từ trong gốc rễ, từ tâm can của mỗi người dân chúng ta? Các anh nghĩ thế nào? Người Việt có phải sống quá tình, vô lý và nhận thức kém không?
Last edited: