Zarathustra ver 2
Senior Member
Mỗ đọc khá nhiều và khá đối lập, đủ để nhìn thấy việc LSVN như một mớ hỗn độn. Tuỳ vào tư duy lịch sử theo kiểu Quốc gia-dân tộc hay tư duy theo hướng thần-người-đất. Nên ở VN cãi nhau mãi khôn nguôi.Thím recommend vài quyển em kiếm xem nào.
Giờ bảo giới thiệu sách lịch sử VN thật sự lá quá khó, vì nó ko có yếu tố thống nhất mà cực kỳ rời rạc, hiện ko có tác giả nào biên soạn được thành một cương mục đủ để định hình được lịch sử văn hoá dân tộc theo hướng tư duy lịch sử hiện đại (tức căn cứ dựa trên cứ liệu lịch sử chính xác, bằng chứng xác thực thông qua di chỉ, văn bản. Và quan trọng nhất là đủ cái tâm với cái tầm để đưa ra ánh sáng sự thật chứ ko chỉ những lời đãi bôi). Phần dưới này sẽ nêu ra một số lưu ý chính, có thể sẽ rất dài.
ví dụ đơn giản nhất là yếu tố: nguồn gốc của người Việt,
Về mặt nhân chủng hiện đại: hiện tại ngoài nghiên cứu gen của ông GS củ lờ với mục đích là để bán nhà và ô tô thì hoàn toàn ko có bằng chứng xác thực về mặt nhân chủng để xác định "người Việt" là ai. mà bản thân cụm từ "nguời Việt" đã rất phiếm đàm như cụm "Bách Việt". Bọn Trung Nguyên ngày xưa gọi chung đám "chúng nó" là Bách Việt theo nghĩa man di khác biệt với "chúng ta" là đám Hán Hoa Hạ.
Về di chỉ và văn bản: từ cuốn Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái đến Toàn Thư,Đại Nam Thực Lục nội chuyện nhà họ Triệu được thờ hay bị sút khỏi bàn thờ đã thấy tranh cãi qua rất nhiều văn bản (bỏ qua tính chính xác của các bản lưu giữ hiện tại, vì các bản mang danh "nội các quan bản" hiện ko được trình bày đúng tiêu chuẩn của ncqb, mang danh bản thời Lê nhưng phần lớn được in từ văn khắc thời Nguyễn, đây là hệ quả của giai đoạn Nội chiến, nhờ có Nha lưu trữ Đông Dương của Nhu mà lại chút ít).
Cuốn Sử Lược ngu dốt của TTK nhồi vào đầu người Việt ý tưởng, người Việt sinh ra con rồng cháu tiên với thời HV các kiểu ( đây là tư duy sử theo hướng Đất-người). <Trước năm 1470, thời điểm biên soạn Toàn Thư. Hoàn toàn ko có khái niệm "Hùng Vương", chỉ có một vài câu chuyện về "Tản Viên Sơn Thần", Ngô Sĩ Liên đưa HV lên làm thuỷ tổ của người Việt phản ánh trạng thái độc lập hoàn toàn so với Trung Nguyên khi các dòng họ trước đây đều gốc phía Bắc (các đời vua từ Ngô, Lý, Trần, Hồ, đều gốc ở mạn Giang-Triết, đất được phong cho Quy Mãn thời Chu Vũ Vương sau này là đất của Ngô,Việt, Sở (Lê Lợi người Mường, khai quật mộ còn phát hiện cái khố)).Tuy nhiên Toàn Thư vẫn ghi nhận vai trò của Sĩ Vương-Sĩ Nhiếp (việc sau này hoàn toàn bị lờ đi).
Di chỉ khảo cổ ở đồng bằng Bắc Bộ cho thấy người gốc Hán di cư sang và định cư phần nhiều từ đầu TK1 kéo vào khu vực nay là Hà Tĩnh. Khu vực Quận Giao Chỉ trước đây ko phát hiện thấy dấu tích của người Âu Lạc <Di chỉ khảo cổ tục táng mộ kiểu Hán, phát hiện nhiều ở khu vực nay là Vũ Thượng, Hải Dương. Hiện bảo tàng tỉnh HD còn lưu giữ nguyên vẹn mộ Hán lớn, và một viên gạch "Vĩnh Kiến ngũ niên Cổ Nguyên vương Hoàng Tác cáo" khoảng 130 SCN.
Trống đồng và các di chỉ của người Thượng phần nhiều phát hiện từ thời Pháp, cho thấy vùng định cư của người Thượng ở vùng trung du kéo dài xuống tạn Malay-indo (vừa rồi cũng vừa phát hiện được Trống Đồng ở Thái và Indo).
Vấn đề thờ cúng và tục lệ: Người Việt ko có nhiều mối liên hệ với tín ngưỡng Hùng Vương và tục lệ thời Hùng Vương. Người Việt ko ăn nổi gạo nếp 3 ngày liên tục, dùng Âm Lịch (người Thượng bao gồm người Mông, Giao, Tày.... dùng Nông Lịch. Ngày tết bọn này đến vào khoảng đầu tháng 12 ÂL, phù hợp với cứ liệu tín ngưỡng HV trước đây). Lúc người Pháp đào cái trống đồng đầu tiên lên cho đến bây giờ, chẳng ai biết đánh cái trống đó. Nhưng mang cho bọn Ê đê, Ba Na nó đánh dược ngay, vì ko khác gì đám cồng chiêng cả.
Vấn đề thờ cúng ở VN cho thấy cái nhìn khá khác biệt của lịch sử theo như mô tả hiện tại. khắp miền bắc có hàng chục đền thờ Mã Viện và Cao Biền (theo như lịch sử mô tả là Tướng Nhà Đường xâm lược VN)
1. Trong TL Tứ Trấn, đền Bạch Mã mang danh thờ Long Đỗ, nhưng vị thần này gần như ko có cứ liệu xuất hiện ngoài câu chuyện trong Tản Viên Sơn Thần. Tại viện Viễn Đông Bác Cổ Paris hiện còn lưu giữ tấm bia thời Chánh hoà 8 (1687), Cảnh Hưng 21-23 (1760-1762), Minh Mạng nguyên niên (1820) về trùng tu Đền Bạch Mã thờ Phục Ba tướng quân tức Mã Viện, Mã Viện cho đến lúc đó vẫn là Thành Hoàng của Thành Thăng Long ( mãi cho tới thời Pháp mới bị sút ra ngoài để thờ Long Đỗ).
2. Tục thờ Cao Biền, hiện có khoảng hơn 10 đền thờ Cao Biền khắp miền Bắc. Đền lớn nhất hiện nằm ở Nam Trì, H. Ưng Thi Hưng Yên. Trong Chiếu Dời Đô của Lý Công Uẩn cũng nhắc Đại La là thành của Cao Vương. Năm 2001, có phát hiện di chỉ trận đồ bát quái trên sông Tô Lịch niên đại khoảng TK, đây được cho là Đoài Môn, cửa Tây của Thành Đại La xưa, theo ông Trần Quốc Vượng, được cho là trấn yểm của Cao Biền, hiện vẫn còn Miếu được lập ra ở đây thờ các Thánh Vật.
3. Gia Phả, Mỗ theo văn bản của một vài nhà nghiên cứu gia phả của mấy chục dòng học lớn còn lưu giữ lại được thì nguồn gốc của họ tương tự như mấy vị vua ở trên, đều là dân di cư từ bên kia sang <cái này ko được coi là cứ liệu lịch sử, chỉ ở dạng tham khảo, vì tính xác thực ko đánh giá được>
Kêt luận lại là quá khó để nghiên cứu, đặc biệt là đọc sách của mấy "Sử gia chữ quốc ngữ hiện nay", ko thể hiểu là lại sinh ra loại sử gia phái sinh, dựa vào cứ liệu của người khác dịch ra để suy luận miên man ra những thứ vớ vẫn như trường hợp Dũng Phan là điển hình. Có một đống lộn xộn của ông "Tạ Chí Đại Trường" viết theo kiểu như mỗ vừa viết ở trên, có thể sẽ hữu ích.