Em thấy lần này khác với 2008 là FED đã ứng cứu thị trường rất sớm, ngân hàng cũng tốt (ít nợ xấu) nhưng do dịch bệnh nên có sự chênh lệch lớn giữa tăng trưởng GDP và tăng trưởng chỉ số Chứng Khoán. Em chỉ thấy về lâu dài nếu khoảng cách này tiếp tục rộng thì khả năng có siêu lạm phát xảy ra (Nhưng $ là đồng tiền để thanh toán quốc tế nên khả năng hấp thụ của thị trường lớn hơn rất nhiều so với các đồng tiền khác)
Chỗ này mình cũng đang bối rối, chưa biết nghĩ thế nào.
Về cơ bản, một số khả năng xảy ra khi một lượng tiền được các ngân hàng tw bơm ra thị trường:
* Lấp đầy lỗ hổng của các khoản nợ. Giải quyết vấn đề thank khoản. Thị trường tài chính stress do thiếu thanh khoản (vì lý do nào đó: tốc độ lưu thông tiền chậm lại, bank runs,..), Fed cho vay, hoặc mua lại tài sản nợ của các tổ chức, Thông thường là TPCP & các khoản nợ đủ tiêu chuẩn, nên không có vấn đề gì. Bình thường tốc độ lưu thông nhanh, tiền ra tiền vào đều đặn nên hệ thống vận hành trơn tru. Khi tốc độ lưu thông đột ngột giảm -> Stress thì Fed cung cấp thanh khoản để bôi trơn thị trường. Khi nợ được thanh toán, tiền sẽ biến mất.
* Nợ xấu và nợ chính phủ
Tiền in ra được đảm bảo bằng một khoản nợ, nghĩa là lời hứa từ một dòng tiền tương lai để thanh toán khoản nợ đó. Trong trường hợp chi tiêu chính phủ liên tục vượt quá thu nhập, họ rơi vào vòng xoáy liên tục "vay để trả". Đến lúc không còn nđt khác chấp nhận tài trợ cho khoản chi tiêu không lồ đó - trừ khi tăng mức lợi suất trái phiếu lên - thì central bank phải nhảy vào mua nợ CP bằng "newly printed money", giữ ls ở mức thấp và tiếp tục vòng xoáy này. Vì CP liên tục "vay để trả" nên nó như là cái đống "newly printed money" chả được backed bởi một cái gì cả.
Ví dụ nđt tài trợ cho chi tiêu chính phủ là nđt trong nước, rồi họ lại dùng nó để chi tiêu công, đẩy lại vào nền kte -> Nghĩa là mỡ nó rán nó: lấy tiền chỗ này thông qua chính phủ là trung gian, đập vào chỗ khác.
Là nđt nước ngoài: Dòng vốn ngoại đổ vào tài trợ cho khả năng chi tiêu của chính phủ & các tổ chức, cá nhân trong nước làm tăng cái "purchasing power" lên, dễ dàng dẫn đến việc chi tiêu quá thu nhập => dễ gây ra lạm phát nếu GDP không tăng tương xứng.
- Central bank in tiền: tương tự như tôi vay thím tiền, xong tôi mua đồ. Đến hạn trả tôi vay thím tiếp, ... Coi như anh cho tôi luôn số tiền đó. Cứ thế, số nợ ngày một tăng lên = tiền mới tăng thêm -> Giá trị đồng tiền giảm đi.
- Tiền chảy vào thị trường vốn, thị trường tài sản: Cổ phiếu, trái phiếu, bđs, vv.. làm tăng giá trị của các loại tài sản này.
Nếu việc in tiền mới làm giảm giá trị của nó -> vô hình chung trái phiếu, tài sản nợ sẽ bị mất giá trị. Vì nó trả fixed income, mà $100 lúc sau << $100 hiện tại.
Cổ phiếu: Theo lý thuyết thì bơm tiền vào thị trường, giảm lãi suất sẽ tạo động lực để đầu tư, tiêu dùng vì chi phí vốn giảm xuống, mọi người có nhiều tiền hơn cảm thấy giàu hơn -> Các công ty tạo lợi nhuận thực -> cổ phiếu hưởng lợi. Đó là theo lối đầu tư giá trị.
Nếu nghĩ theo lối thanh khoản đâm đầu vào đâu, thì khi tiền in ra càng nhiều & nguy cơ mất giá trị càng cao -> tài sản nợ mất giá trị (về mặt duy trì sức mua) -> Tiền sẽ đổ vào các dạng tài sản thay thế: BĐS, vàng, cổ phiếu.
Lạm phát quá cao? Đây là thời kỳ từ 1968-1980 lạm phát ở Mỹ rất cao. Mức lạm phát và TTCK trái ngược nhau. Giống ở VN chục năm trước -> lạm phát cao làm tình hình sxkd rất bất ổn.
Nhưng hãy nhớ rằng trước thời kỳ đó là thời kỳ cả TTCK & nền kte Mỹ tăng trưởng rất khá cuối thập kỷ 50s - 60s -> mở rộng tín dụng, cung tiền quá mức dẫn đến lạm phát cao.