Bắt Sấu rừng U minh hạ

ReqUireD

Senior Member
Nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhứt. Có điều đáng chú ý là chúng không thích chốn sông sâu nước chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tịnh, chật hẹp. Vùng U Minh Hạ sấu thường đi ngược sông Ông Đốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm.
Tại sao vậy?
Tuy là thích ăn thịt người, loại sấu vẫn tìm cá làm món ăn chính. Rừng U Minh Hạ thuộc về loại tràm thủy, cá sanh sôi nảy nở rất nhanh chóng; lên đó, tha hồ mà ăn.
Đến mùa nắng hạn rừng khô, sấu khỏi trở về sông Cái. Trong rừng có sẵn nhiều ao, nhiều lung, sấu cứ gom vào đó mà lập căn cứ, sanh con đẻ cháu, năm này qua năm khác, cứ như vậy cho tới khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được năm mười con sấu ở ngọn rạch họ đinh ninh cho sấu đã giảm bớt... mười phần chết bảy còn ba. Mãi đến khi có người lên rừng ăn ong chạy về loan báo:
- Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!
So sánh như vậy không phải là quá đáng! Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn. Sấu nổi lên, chen vào bức tranh màu xanh ấy những vệt đen chi chít; con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá. Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui vào giữa lòng ao, để thủ thế. Dân làng nhìn nhau như ra lệnh rút lui. Nghi ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh. Nó là “sấu chúa” sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài người... Khi ở trên cạn sấu không nguy hiểm bằng một con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toan dụ địch thủ của nó vào hang của nó nơi nước sâu. Trong số người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông, lao, ná lãy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng. Đằng này, sấu lại là ở nước, ở bùn lầy. Chống xuồng vào thì ao quá cạn còn đi bộ xuống thì bùn lún ngập gối.
Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đãi lần lần, thấu đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo, tức là vùng Rạch Giá ngày nay. Ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuồng, có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu.
Từ sớm đến chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Đầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...

Giọng nghe áo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kỳ lạ, xuống đứng dưới bến để nhìn kỹ. Đoán chừng ông lão nọ là người kỳ tài; họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi.
Sau khi tự xưng danh tánh, ông bảo:
  • Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này...
  • Té ra ông là thợ câu sấu!
Ông Năm Hên lắc đầu:
  • Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó khác nhau. Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Đó là ở dưới nước. Đằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.
  • Vậy chớ ông bắt bằng gì?
  • Tôi bắt bằng... hai tay không.
Ai nấy ngạc nhiên. Ông Năm Hên cười giòn:
- Bà con cô bác không tin sao?
Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ hồi nào tới giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu. Không lẽ nào ông Năm Hên này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này! Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thử cách thức.
- Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mừng? Nếu cần giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. Ở xóm này, thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.

Ông Năm Hên đáp:
- Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao sấu đó. Có vậy thôi! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt? Tôi không có tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không màng thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con: cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tui. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười năm về trước. Sau được tin cho hay: Ảnh bị sấu ở Ngã ba Đình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Đầm Sấu, Lung Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua mới đặt tên như vậy, cũng như Phá Tam Giang, Truông nhà Hồ của mình, ngoài Huế.
Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư Hoạch một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hên cản lại:

- Đi nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch đi theo coi mà.
Đã quá giờ Ngọ.
Ngóng về phía ao sấu U Minh Hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời vừa xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi:
- Bà con ơi! Ra coi sấu... Bốn mươi lăm con còn sống nhăn.
Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.
- Diệu kế! Diệu kế! Tôi là Tư Hoạch đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu lội có hàng dưới sông mình nè! Một đời người mới có một lần.
Dưới sông Tư Hoạch ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu. Con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm bao? Người thì há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị sự trừng phạt của quỉ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít.
Đại khái, Tư Hoạch trình bày:
- Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng đào một đường nhỏ, ngày một cạn từ bờ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một cây mốp tươi, chặt ra khúc chừng ba tấc.
Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần vì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu hả miệng hung hăng đòi táp ổng. Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn hả miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại; chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.
- Thực là bực thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thật quá cao cường. Ổng đâu rồi? Sao không thấy ổng về? Xóm mình nhứt định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao?
Tư Hoạch nói:
- Mà quên! Ổng biểu tôi về trước cho bà con coi thử. Phần ổng mắc ở lại cúng “đất đai vương trạch” rồi đi bộ về sau.
Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Đầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...

Tiếng như khóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhất là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.
- Coi tướng của ông ghê như tướng thầy pháp! Một người thốt lên như vậy.
Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Đó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thây vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chứ?
 
Nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhứt. Có điều đáng chú ý là chúng không thích chốn sông sâu nước chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tịnh, chật hẹp. Vùng U Minh Hạ sấu thường đi ngược sông Ông Đốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm.
Tại sao vậy?
Tuy là thích ăn thịt người, loại sấu vẫn tìm cá làm món ăn chính. Rừng U Minh Hạ thuộc về loại tràm thủy, cá sanh sôi nảy nở rất nhanh chóng; lên đó, tha hồ mà ăn.
Đến mùa nắng hạn rừng khô, sấu khỏi trở về sông Cái. Trong rừng có sẵn nhiều ao, nhiều lung, sấu cứ gom vào đó mà lập căn cứ, sanh con đẻ cháu, năm này qua năm khác, cứ như vậy cho tới khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được năm mười con sấu ở ngọn rạch họ đinh ninh cho sấu đã giảm bớt... mười phần chết bảy còn ba. Mãi đến khi có người lên rừng ăn ong chạy về loan báo:
- Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!
So sánh như vậy không phải là quá đáng! Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn. Sấu nổi lên, chen vào bức tranh màu xanh ấy những vệt đen chi chít; con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá. Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui vào giữa lòng ao, để thủ thế. Dân làng nhìn nhau như ra lệnh rút lui. Nghi ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh. Nó là “sấu chúa” sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài người... Khi ở trên cạn sấu không nguy hiểm bằng một con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toan dụ địch thủ của nó vào hang của nó nơi nước sâu. Trong số người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông, lao, ná lãy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng. Đằng này, sấu lại là ở nước, ở bùn lầy. Chống xuồng vào thì ao quá cạn còn đi bộ xuống thì bùn lún ngập gối.
Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đãi lần lần, thấu đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo, tức là vùng Rạch Giá ngày nay. Ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuồng, có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu.
Từ sớm đến chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Đầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...

Giọng nghe áo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kỳ lạ, xuống đứng dưới bến để nhìn kỹ. Đoán chừng ông lão nọ là người kỳ tài; họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi.
Sau khi tự xưng danh tánh, ông bảo:
  • Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này...
  • Té ra ông là thợ câu sấu!
Ông Năm Hên lắc đầu:
  • Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó khác nhau. Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Đó là ở dưới nước. Đằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.
  • Vậy chớ ông bắt bằng gì?
  • Tôi bắt bằng... hai tay không.
Ai nấy ngạc nhiên. Ông Năm Hên cười giòn:
- Bà con cô bác không tin sao?
Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ hồi nào tới giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu. Không lẽ nào ông Năm Hên này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này! Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thử cách thức.
- Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mừng? Nếu cần giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. Ở xóm này, thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.

Ông Năm Hên đáp:
- Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao sấu đó. Có vậy thôi! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt? Tôi không có tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không màng thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con: cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tui. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười năm về trước. Sau được tin cho hay: Ảnh bị sấu ở Ngã ba Đình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Đầm Sấu, Lung Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua mới đặt tên như vậy, cũng như Phá Tam Giang, Truông nhà Hồ của mình, ngoài Huế.
Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư Hoạch một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hên cản lại:

- Đi nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch đi theo coi mà.
Đã quá giờ Ngọ.
Ngóng về phía ao sấu U Minh Hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời vừa xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi:
- Bà con ơi! Ra coi sấu... Bốn mươi lăm con còn sống nhăn.
Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.
- Diệu kế! Diệu kế! Tôi là Tư Hoạch đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu lội có hàng dưới sông mình nè! Một đời người mới có một lần.
Dưới sông Tư Hoạch ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu. Con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm bao? Người thì há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị sự trừng phạt của quỉ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít.
Đại khái, Tư Hoạch trình bày:
- Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng đào một đường nhỏ, ngày một cạn từ bờ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một cây mốp tươi, chặt ra khúc chừng ba tấc.
Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần vì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu hả miệng hung hăng đòi táp ổng. Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn hả miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại; chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.
- Thực là bực thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thật quá cao cường. Ổng đâu rồi? Sao không thấy ổng về? Xóm mình nhứt định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao?
Tư Hoạch nói:
- Mà quên! Ổng biểu tôi về trước cho bà con coi thử. Phần ổng mắc ở lại cúng “đất đai vương trạch” rồi đi bộ về sau.
Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Đầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...

Tiếng như khóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhất là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.
- Coi tướng của ông ghê như tướng thầy pháp! Một người thốt lên như vậy.
Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Đó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thây vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chứ?
WOT, ko có nổi cái hình
 
Nội tôi kể, hồi xưa đi rừng sông đốc or Lâm trường cá rô sấu lội bầy bầy, cọp beo gấu nai nhiều không kể siếc. Hồi đó đi xuồng ba lá, xuồng be 8, gặp những con sấu già ranh mãnh nó nổi lên ngay giữa xuồng làm lật xuồng để ăn người. Mà hồi đó sông không to nhue bây giờ, chỉ tầm 10 thước, hai bên bờ cây đước, sú, mắm, bần mọc xòe ra không nhìn thấy mặt trời luôn. Dân cà mau hồi đó ai cũng phải đj rừng đốn củi 1 năm vài lần. Có những lần đi sau mấy trận mỹ bỏ bom xuống rừng, cái cảnh người bị nổ văng đầu, tứ chi móc lên cây đước mà rùng rợn. Chưa kể đến ma trong rừng nhiều nữa....
 
Nội tôi kể, hồi xưa đi rừng sông đốc or Lâm trường cá rô sấu lội bầy bầy, cọp beo gấu nai nhiều không kể siếc. Hồi đó đi xuồng ba lá, xuồng be 8, gặp những con sấu già ranh mãnh nó nổi lên ngay giữa xuồng làm lật xuồng để ăn người. Mà hồi đó sông không to nhue bây giờ, chỉ tầm 10 thước, hai bên bờ cây đước, sú, mắm, bần mọc xòe ra không nhìn thấy mặt trời luôn. Dân cà mau hồi đó ai cũng phải đj rừng đốn củi 1 năm vài lần. Có những lần đi sau mấy trận mỹ bỏ bom xuống rừng, cái cảnh người bị nổ văng đầu, tứ chi móc lên cây đước mà rùng rợn. Chưa kể đến ma trong rừng nhiều nữa....
Hồi đó toàn sư tổ của bác Ba Phi. Miệt U Minh Hạ hay kể về loài cá Mú bự bằng cái chòi vịt. Nó hay núp sát bờ đất chờ người đi ngang qua rồi nuốt trọng.
Còn ở sông Vàm Nao thì có đầy cá Bông gấm. Chuyên gia cắn cụt tay người giặt đồ rửa chén.
Còn chuyện quỷ yêu hiện giữa ban ngày bắt người thì đầy, thậm chí nó bắt luôn con trâu để ăn thịt.
Nhưng yêu ma quỷ quái, thú lớn dữ dằn toàn ăn hiếp dân trong nước. Gặp súng tây dương là trốn không còn một mống. Rặt một lũ khôn nhà dại chợ.
 

Hồi đó toàn sư tổ của bác Ba Phi. Miệt U Minh Hạ hay kể về loài cá Mú bự bằng cái chòi vịt. Nó hay núp sát bờ đất chờ người đi ngang qua rồi nuốt trọng.
Còn ở sông Vàm Nao thì có đầy cá Bông gấm. Chuyên gia cắn cụt tay người giặt đồ rửa chén.
Còn chuyện quỷ yêu hiện giữa ban ngày bắt người thì đầy, thậm chí nó bắt luôn con trâu để ăn thịt.
Nhưng yêu ma quỷ quái, thú lớn dữ dằn toàn ăn hiếp dân trong nước. Gặp súng tây dương là trốn không còn một mống. Rặt một lũ khôn nhà dại chợ.
Thế tây lông không có truyền thuyết quái thú yêu ma quỷ quái à thằng ngu
 
Hồi đó toàn sư tổ của bác Ba Phi. Miệt U Minh Hạ hay kể về loài cá Mú bự bằng cái chòi vịt. Nó hay núp sát bờ đất chờ người đi ngang qua rồi nuốt trọng.
Còn ở sông Vàm Nao thì có đầy cá Bông gấm. Chuyên gia cắn cụt tay người giặt đồ rửa chén.
Còn chuyện quỷ yêu hiện giữa ban ngày bắt người thì đầy, thậm chí nó bắt luôn con trâu để ăn thịt.
Nhưng yêu ma quỷ quái, thú lớn dữ dằn toàn ăn hiếp dân trong nước. Gặp súng tây dương là trốn không còn một mống. Rặt một lũ khôn nhà dại chợ.
Nội tôi vẫn hay kể lại đây này, đây là chuyện từng trải qua. Không cần nói đâu xa sôi, 20 năm trước thôi. Những đêm ba khía hội, ba khía bò lên nhau châtd thành đống, mỗi đống đựng cở bao bố nhưng chả có ai bắt cả. Ghẹ, ghẹm thì một đêm xổ ra vần cần xé, chỉ để ủ nước mắm or làm phân bón, xay cho vịt ăn. Cá thì thôi rồi, bao la bát ngát, những con cá nâu to như cái dĩa năng đến 1-2kg,cá chẻm 30-40kg là bình thường, cá chốt thì nổi đen đầu mỗi buổi sáng, sân chim đầm dơi với hằng hà sa số chim cò sếu vạc, chỉ cần vào bẫy một ngày cả trăm con, trứng chim thì nhiều còn hơn trứng vịt chạy đồng nhưng k ai lấy vì sợ chim dỗi không về sân chim nữa. Đó chỉ là thời của tôi, cách đây 20 năm thôi đó, thời của ba tôi cách đây 40-50 năm còn nhiều sản vật hơn nữa. Thời ông bà tôi thì cọp beo, sấu là chuyện thường. Rừng thời đó là rừng nguyên sinh, không được khai khẩn, rất ít dấu chân người. Cái thời còn trồng lúa ma, thu hoạch ban đêm,... thím thử về hỏi ông bà thím lịch sử khai hoang vùng đất mới ở rừng đước cà mau như thế nào người ta kể cho mà nghe. Học được mớ chữ nghĩa rồi quay lại nói ông bà ngày xưa chém gió, nói đêu
 
Tây lâu lâu mới đi vào rừng ít gặp chứ dân họ ở đó sinh hoạt hằng ngày thì gặp là đúng rồi.
Mình chỉ căm là sao nó toàn hại dân lành, mà k bóp cổ tụi Tây qua xâm lược.
Chứ lâu lâu mình về quê, nghe mấy ông chú, ông bác kể cho nghe hoài, cũng thú vị lắm.
Riêng vụ rắn hổ mây thì ai cũng thề thốt là có thật @.@ Không chỉ mỗi Thiên Cấm Sơn có.
 
Mình chỉ căm là sao nó toàn hại dân lành, mà k bóp cổ tụi Tây qua xâm lược.
Chứ lâu lâu mình về quê, nghe mấy ông chú, ông bác kể cho nghe hoài, cũng thú vị lắm.
Riêng vụ rắn hổ mây thì ai cũng thề thốt là có thật @.@ Không chỉ mỗi Thiên Cấm Sơn có.
Xác xuất thống kê, nó gặp đối tượng nào thì thịt đối tượng đó thôi. Người Miên người Việt, người Tây sấu nó đâu có phân biệt.
 
Back
Top