Các phương pháp định giá sản phẩm trong marketing

Mong cao nhân nào vào đàm đạo tý cho vui, sẵn vừa chơi VOZ vừa học hỏi.
Nếu 1 công ty mới muốn thâm nhật thị trường thì nên chọn phương pháp định giá sản phẩm như thế nào nhỉ ?
Nếu định giá sản phẩm thấp thì sau này muốn nâng giá sản phẩm lên thì như thế nào ta ?
Chính sách giá giữa đại lý, nhà phân phối, người tiêu dùng thì phải như thế nào để nó không xung đột lẫn nhau .
....................................................................
A. NHÓM PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ DỰA TRÊN CHI PHÍ SẢN XUẤT (Cost-based Pricing)

1. Phương pháp định giá markup (markup pricing/cost-plus pricing)

Doanh nghiệp sử dụng phương pháp định giá markup sẽ xác định giá bằng cách xác định chi phí sản xuất ra một sản phẩm, sau đó lấy mức chi phí này cộng với một khoảng lợi nhuận trên từng sản phẩm. Để dễ hình dung hơn, chúng ta có thể nhìn vào công thức dưới đây:

Phương pháp định giá Markup pricing


Giả sử, doanh nghiệp A tính được rằng tổng chi phí (bao gồm nguyên vật liệu, nhân công, chi phí khác...) để sản xuất ra một chiếc xe đạp là 1 triệu đồng. Sau đó, căn cứ vào tình hình cạnh tranh trên thị trường hiện tại, doanh nghiệp A định mức lợi nhuận (markup) là 2 trăm nghìn đồng và niêm yết giá của mỗi chiết xe đạp là 1,2 triệu đồng.

Trong khi đó một doanh nghiệp B có cùng ngành nghề, sản phẩm và chung thị trường với doanh nghiệp A, cũng tính được tổng chi phí trên mỗi chiếc xe đạp là 1 triệu đồng. Tuy nhiên, nhờ vào tình hình tài chính tốt, doanh nghiệp B muốn tạo lợi thế cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp A nên định mức lợi nhuận (markup) thấp hơn là 1 triệu đồng, và đưa ra mức giá niêm yết là 1,1 triệu đồng.

Trong một số trường hợp khác, con số lợi nhuận (markup) có thể là 0 hoặc là âm, khi doanh nghiệp muốn gia tăng lợi thế cạnh tranh, hay chỉ đơn giản là để thanh lý hàng tồn kho và rút sản phẩm ra thị trường vào giai đoạn cuối của chu kỳ sống.

Đây là phương pháp định giá vô cùng phổ biến, được áp dụng ở rất nhiều doanh nghiệp và các cửa hàng nhỏ lẻ trên thế giới. Ưu điểm của phương pháp này là dễ tính, có thể điều chỉnh linh hoạt tùy theo tình hình thị trường và chiến lược của doanh nghiệp, cũng như là có thể dự đoán trước được mức lợi nhuận trên mỗi sản phẩm.

2. Phương pháp định giá dựa trên điểm hòa vốn (Break-even point pricing)

Phương pháp định giá dựa trên điểm hòa vốn là phương pháp mà trong đó doanh nghiệp xác định giá của sản phẩm dựa trên mối quan hệ giữa điểm hòa vốn, định phí và biến phí/sản phẩm.

Trước khi đi vào chi tiết của của phương pháp tính, chúng ta cần nắm rõ một số thuật ngữ sau:

  • Điểm hòa vốn: Là số lượng sản phẩm bán ra để có được tổng doanh thu bằng với chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra.
  • Định phí: Là tổng chi phí cố định trong suốt quá trình sản xuất
  • Biến phí/sản phẩm: Là mức chi phí biến động để có thể bán ra được một sản phẩm (Thông thường, doanh nghiệp có thể đặt biến phí/sản phẩm ở mức trung bình, thấp nhất hoặc cao nhất tùy theo tình hình thực tại của mỗi doanh nghiệp)
Doanh nghiệp áp dụng phương pháp này có thể xác định giá của sản phẩm theo 2 hướng:

  • Hướng 1: Ước tính hoặc đặt ra một con số cụ thể làm điểm hòa vốn (mục tiêu), sau đó xác định chi phí cố định để sản xuất một lượng sản phẩm nhất định ra thị trường và ước tính mức biến phí đối một đơn vị sản phẩm và áp dụng theo công thức để tính ra giá sản phẩm:
Phương pháp định giá theo điểm hòa vốn


  • Hướng 2 (Ngược lại so với hướng 1): Ước chừng một mức giá sản phẩm trước, rồi sau đó xác định chi phí cố định để sản xuất một lượng sản phẩm nhất định ra thị trường và ước tính mức biến phí đối một đơn vị sản phẩm, áp dụng công thức dưới đây để xác định điểm hòa vốn, sau đó điều chỉnh mức giá đến khi điểm hòa vốn phù hợp với tình hình thực tại của doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh đã đề ra.
Phương pháp định giá theo điểm hòa vốn 2


Theo phương pháp này, sau khi số lượng sản phẩm bán ra đạt đến điểm hòa vốn, doanh nghiệp mới bắt đầu thu về lợi nhuận từ số lượng sản phẩm bán ra vượt ngưỡng điểm hòa vốn.

Phương pháp này thường được áp dụng ở những doanh nghiệp sản xuất hàng hóa với số lượng lớn và có khả năng kiểm soát chi phí tốt.



Break-even point pricing



B. NHÓM PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ DỰA TRÊN GIÁ TRỊ KHÁCH HÀNG NHẬN ĐƯỢC (Customer value - based Pricing)

1. Phương pháp định giá theo giá trị sản phẩm/dịch vụ (good-value pricing)

Phương pháp định giá theo giá trị sản phẩm/dịch vụ hoàn toàn không được tính dựa trên chi phí bỏ ra, mà dựa vào hoàn toàn giá trị mà khách hàng nhận được khi mua sản phẩm/dịch vụ. Như vậy, doanh nghiệp sẽ căn cứ vào các yếu tố sau để quyết định giá thành sản phẩm:

  • Chất lượng & thiết kế của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh
  • Các tính năng có trong sản phẩm
  • Trải nghiệm sử dụng mà sản phẩm mang lại cho khách hàng
  • Công nghệ có trong sản phẩm so với môi trường công nghệ ở thời điểm hiện tại
  • Giá trị thương hiệu mang lại cùng với sản phẩm
  • Độ khan hiếm của sản phẩm trên thị trường
Ví dụ:

Ô-tô Mercedes Benz

Các dòng xe Mercedes được định giá dựa trên giá trị của sản phẩm mang lại: Thiết kế đẹp mắt, động cơ vận hành êm ái, hiệu năng tốt, công nghệ tân tiến, thương hiệu thể hiện sự sang trọng, đẳng cấp
Du lịch ngày lễ

Giá các dịch vụ nghỉ dưỡng, du lịch tăng mạnh vào các thời điểm mùa vụ như lễ, tết.
2. Phương pháp định giá theo giá trị bổ sung (Value-added pricing)

Cơ chế của phương pháp định giá này là thông qua việc so sánh giá trị sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp mang lại cho khách hàng so với giá trị trừ sản phẩm/dịch vụ của đối thủ. Trong trường hợp giá trị của sản phẩm mà doanh nghiệp mang lại cao hơn, doanh nghiệp sẽ định một mức giá cao hơn so với sản phẩm của đối thủ, nghĩa là mức chênh lệch về giá sẽ thể hiện sự chênh lệch của giá trị sản phẩm. Trong trường hợp giá trị sản phẩm của doanh nghiệp thấp hơn so với đối thủ, doanh nghiệp sẽ nghiên cứu để bổ sung vào những giá trị sao cho cao hơn so với đối thủ, rồi thực hiện việc định giá tương tự.

Phương pháp định giá này thường được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp đang áp dụng chiến lược cạnh tranh trực tiếp với một hay nhiều sản phẩm khác của đối thủ trong cùng một phân khúc thị trường, cũng như khẳng định vị thế định vị thương hiệu so với những đối thủ ấy.
............................
Copy trên web marketing : không ghi nguồn vì không muốn seeder web
Học hỏi mấy cao nhân 300k biden
zFNuZTA.png

Tự do thảo luận nha mấy fence

Sữa Abbot Gain Plus
 
nghe nói môn thẩm định giá tài sản là ác mộng của sv. may ngành em ko có học
YMzl14m.png
Thẩm định giá nó khác mà fence, thẩm định là mấy môn của bên tài chính hoặc ngân hàng , hay của mấy đứa làm dự án xem tài sản bao nhiêu abc cho vay rồi ....
Cái này nó thiên về chiến lược xét giá để bán như thế nào hơn.
 
đá lên phát, vì chỉ mới chập chững tìm hiểu nên không biết gì để phát biểu.
Nhân tiện muốn hỏi: đối với kinh doanh bán lẻ mặt hàng tiêu dùng, thì xác định giá sản phẩm bán ra dựa trên những yêu tiêu chí và cơ sở nào?
 
Thông thường mình nhìn chất lượng/giá bán các sản phẩm hiện có trên thị trường rồi điều chỉnh sp của mình neo theo đó.
 
Thông thường mình nhìn chất lượng/giá bán các sản phẩm hiện có trên thị trường rồi điều chỉnh sp của mình neo theo đó.
Vậy thím giải thích sao về hình thước niêm yết giá thường thấy, ví dụ như 99.999đ, 1.990.000đ? tại sao niêm yết vậy mà không phải 100.000đ, 2.000.000đ? ưu điểm của hình thức này là gì?
 
Vậy thím giải thích sao về hình thước niêm yết giá thường thấy, ví dụ như 99.999đ, 1.990.000đ? tại sao niêm yết vậy mà không phải 100.000đ, 2.000.000đ? ưu điểm của hình thức này là gì?
Cái này là hiệu ứng tâm lý mà thím. Nhìn nó có vẻ rẻ hơn số tiền chẵn. Mình đang nói trọng tâm về cách định giá khung.
 
đá lên phát, vì chỉ mới chập chững tìm hiểu nên không biết gì để phát biểu.
Nhân tiện muốn hỏi: đối với kinh doanh bán lẻ mặt hàng tiêu dùng, thì xác định giá sản phẩm bán ra dựa trên những yêu tiêu chí và cơ sở nào?
Bán lẻ thì mình phải tham khảo giá bán mấy tiệm gần sát tiệm mình để bán bằng giá hoặc thấp hơn.
 
Vậy thím giải thích sao về hình thước niêm yết giá thường thấy, ví dụ như 99.999đ, 1.990.000đ? tại sao niêm yết vậy mà không phải 100.000đ, 2.000.000đ? ưu điểm của hình thức này là gì?
Đòn này gọi là định giá tâm lý.
Khách hàng chỉ có vài giây để đưa ra quyết định chọn mua hàng. Giữa sản phẩm giá 99,999đ và 100,000đ chỉ chênh lệch có 1đ thôi nhưng tâm lý và hành vi của khách hàng là sẽ đọc từ trái qua phải và đưa ra so sánh rất nhanh ở con số đầu tiên, xét về tâm lý họ sẽ thấy con số 99.xxxđ rẻ hơn so với 100.000đ nhưng nếu phân tích kĩ các con số hàng đơn vị thì chỉ chênh nhau có 1đ thôi chẳng đáng nhiêu, tâmlý khách hàng lúc nào cũng muốn rẻ, muốn hời và trên bình diện chung, không phải khách hàng nào cũng đều giỏi tính toán và nhạy bén về những con số nên chiêu định giá tâm lý này giúp thúc đẩy quyết định mua hàng. Đây cũng là 1 case study trong định giá sản phẩm.
 
Back
Top