Xà Bông
Senior Member
Trên này thấy nhiều topic giới thiệu hay xin tư vấn về nhớt nhưng phần nhiều đều là cảm giác chủ quan chứ ko dựa trên phân tích kỹ thuật, vậy nên mình làm 1 thread giới thiệu sơ qua về cách nhớt máy hoạt động và các điều cần quan tâm.
Nhớt máy là sản phẩm của hoá dầu với các Hydrocarbon dài, chuỗi càng dài thì càng đặc (nhẹ nhất là khí ga -> naptha -> xăng -> dầu diesel -> ....-> dầu máy -> nhựa đường). Nhiệm vụ chính của nhớt máy nhằm bít kín khe hở giữa piston và xylanh để đảm bảo khả năng nén của động cơ (tất nhiên còn nhiều tác dụng khác, xem phần dưới). Chỉ số chính của nhớt máy là độ nhớt được đo bằng tỷ lệ giữa độ nhớt của 2 loại dầu tham chiếu (0 tương đương với dầu vịnh Texas và 100 tương đương với dầu paraffin ở Pennsylvania), số càng to thì dầu càng đặc. Thông thường nhớt mua sẽ có 2 con số, ví dụ 10W40 trong đó 10 là độ nhớt khi lạnh và 40 là độ nhớt khi nóng. Với mỗi động cơ và môi trường hoạt động sẽ có độ nhớt tối ưu, bởi vì nếu nhớt quá loãng sẽ không thể hình thành màng dầu trên thành xylanh, và ngược lại nếu nhớt quá đặc sẽ khó khởi động cũng như gây mòn động cơ khi mới nổ máy (70% mài mòn thành xylanh xảy ra ở nhiệt độ thấp).
Vậy tại sao nhớt máy lại có độ chênh lệch độ nhớt như vậy? Nguyên nhân là do thành phần của dầu mỏ chứa paraffin có nhiệt độ chảy cao khiến cho dầu trở nên rất đặc ở nhiệt độ ngoài trời nhưng lại qúa loãng ở nhiệt độ làm việc của động cơ (khoảng 70~80oC). Chính bởi vậy nên dầu nhớt cần được loại bỏ các thành phần paraffin này ra để có thể hoạt động tốt. Ngoài ra cũng có thể tự tổng hợp từ khí tự nhiên hoặc các hoá chất khác để tránh tạo ra paraffin, đây chính là dầu tổng hợp. Ngoài ra còn có các hydrocarbon thơm cũng có hại cho dầu khi chúng bị oxy hoá.
Nhớt gốc: Chia thành những loại như sau:
Trên thế giới có 2 bộ tiêu chuẩn chính là của API (Mỹ) như SF, SJ, SL, SN v.v... và của JASO (Nhật) như MA1, MA2, MB v.v.. Bộ của JASO dành riêng cho xe máy nên sẽ có thêm yêu cầu đảm bảo ma sát lá côn cũng như tính kháng tạo bọt (do xe máy dùng dầu động cơ bôi trơn hộp số luôn). Nói chung đi sâu vào sẽ khá phức tạp nhưng đơn gỉan nhất bạn cứ theo hướng dẫn của nhà sản xuất để lựa chọn. Hầu hết các xe máy ở VN đều có phân khối nhỏ và cũng không qúa khắt khe về loại nhớt máy sử dụng. Nếu như bạn thấy thay nhớt loại khác mà cảm thấy máy bốc hơn, khác hơn thì có 2 khả năng: một là đang bị placebo, hai là nhớt cũ của bạn có vấn đề. Vì không có lý do gì nhà sản xuất xe máy lại chỉ dẫn dùng 1 loại nhớt kém hơn cho xe của họ cả.
Nhớt máy là gì
Nhớt máy là sản phẩm của hoá dầu với các Hydrocarbon dài, chuỗi càng dài thì càng đặc (nhẹ nhất là khí ga -> naptha -> xăng -> dầu diesel -> ....-> dầu máy -> nhựa đường). Nhiệm vụ chính của nhớt máy nhằm bít kín khe hở giữa piston và xylanh để đảm bảo khả năng nén của động cơ (tất nhiên còn nhiều tác dụng khác, xem phần dưới). Chỉ số chính của nhớt máy là độ nhớt được đo bằng tỷ lệ giữa độ nhớt của 2 loại dầu tham chiếu (0 tương đương với dầu vịnh Texas và 100 tương đương với dầu paraffin ở Pennsylvania), số càng to thì dầu càng đặc. Thông thường nhớt mua sẽ có 2 con số, ví dụ 10W40 trong đó 10 là độ nhớt khi lạnh và 40 là độ nhớt khi nóng. Với mỗi động cơ và môi trường hoạt động sẽ có độ nhớt tối ưu, bởi vì nếu nhớt quá loãng sẽ không thể hình thành màng dầu trên thành xylanh, và ngược lại nếu nhớt quá đặc sẽ khó khởi động cũng như gây mòn động cơ khi mới nổ máy (70% mài mòn thành xylanh xảy ra ở nhiệt độ thấp).
Vậy tại sao nhớt máy lại có độ chênh lệch độ nhớt như vậy? Nguyên nhân là do thành phần của dầu mỏ chứa paraffin có nhiệt độ chảy cao khiến cho dầu trở nên rất đặc ở nhiệt độ ngoài trời nhưng lại qúa loãng ở nhiệt độ làm việc của động cơ (khoảng 70~80oC). Chính bởi vậy nên dầu nhớt cần được loại bỏ các thành phần paraffin này ra để có thể hoạt động tốt. Ngoài ra cũng có thể tự tổng hợp từ khí tự nhiên hoặc các hoá chất khác để tránh tạo ra paraffin, đây chính là dầu tổng hợp. Ngoài ra còn có các hydrocarbon thơm cũng có hại cho dầu khi chúng bị oxy hoá.
Công dụng của nhớt động cơ:
- Bít kín khe hở: Nếu ai đã từng sửa xe sẽ thấy séc măng lắp vào thân piston rất lỏng nhưng lại chịu được áp suất làm việc của động cơ rất lớn. Lý do vì séc măng hầu như không tiếp xúc với thành xylanh trong qúa trình làm việc mà có 1 lớp dầu rất mỏng nằm giữa, lớp dầu này có tác dụng đảm bảo áp suất trong lòng xylanh không bị thoát ra.
- Bôi trơn động cơ trong qúa trình hoạt động: cái này qúa rõ ràng không có gì để nói. Mọi người để ý những xe không chịu thay dầu (chủ yếu do chị em sử dụng) sẽ bị khói trắng ra sau do dầu không còn khả năng bôi trơn nữa khiến mòn séc măng, gây cháy dầu.
- Bôi trơn động cơ khi mới khởi động: Khi mới khởi động nhớt sẽ chưa được bơm lên động cơ, nên đây cũng chính là lúc mà động cơ bị mài mòn nhiều nhất. Để ngăn chặn việc này các nhà sản xuất nhớt sẽ thêm 1 phụ gia đặc biệt có tác dụng tạo 1 màng bôi trơn rất mỏng đọng lại trên bề mặt.
- Bôi trơn hộp số: Không có gì để nói
- Làm sạch động cơ: Trong nhớt sẽ chứa các thành phần phụ gia giống xà phòng có tác dụng làm bong các chất bẩn bám trên thành cũng như ngăn không cho chúng lắng xuống mà giữa lại trong nhớt. Nếu không thay nhớt thường xuyên thì nhớt trong máy sẽ bị qúa tải, không còn khả năng làm sạch nữa dẫn đến nhiều vấn đề.
- Đảm bảo ma sát giữa các lá côn: Đây chính là sự khác biệt giữa nhớt xe ga/xe ô tô và xe máy. Do chỉ có xe máy là còn sử dụng lá côn ướt nên nếu dầu có chứa các phụ gia giảm ma sát ở áp suất cao (EP) sẽ tạo hiện tượng trượt côn, cháy côn. Dầu nhớt cho xe số sẽ có phụ gia đảm bảo côn hoạt động tốt.
Thành phần và các loại dầu nhớt
Nhớt gốc: Chia thành những loại như sau:
- Nhớt nhóm I: Nhớt có nguồn gốc dầu mỏ được tinh luyện dùng đất sét để hấp thụ paraffin + xử lý sau. Không được sử dụng nữa.
- Nhớt nhóm II: Là nhớt có nguồn gốc dầu mỏ được tinh luyện theo phương pháp Hydro-isomer hoá, trong đó paraffin được biến tính thành chất bôi trơn thay vì cracking thành các chuỗi hydrocarbon ngắn hơn. Đây là loại dầu phổ biến nhất hiện nay và có chất lượng rất tốt, gần ngang bằng với nhớt tổng hợp.
- Nhớt nhóm III: Cũng là nhớt có nguồn gốc dầu mỏ nhưng được tinh luyện ở mức cao nhất, có chất lượng tương đương với nhớt tổng hợp (trừ ở nhiệt độ thấp < 40oC). Tuy là nhớt nguồn gốc dầu mỏ nhưng có rất nhiều hãng lại gọi đây là nhớt tổng hợp, điều này ko đúng về bản chất (ví dụ như Motul H-tech hay nhớt của Yamaha)
- Nhớt nhóm IV: Là nhớt tổng hợp từ các phân tử Poly-Alpha-Olefin, đây là nhớt có hiệu năng cao nhất. Nhược điểm là đắt gấp đôi nhớt nhóm III trong khi hiệu năng tương đương, giờ khá ít gặp.
- Nhớt nhóm V: Làm từ ester thay vì PAO, nhóm này có ưu điểm vượt trội ở tính năng tự làm sạch động cơ mà không cần phụ gia, nhược điểm là đắt nhất. Motul 300V thuộc nhóm này.
- Nhớt nhóm III+: Được tổng hợp từ khí tự nhiên, về chất lượng tương đương với loại IV và V với gía thành chất nhận được hơn, nhớt Shell Advance Ultra thuộc loại này.
- Phụ gia đảm bảo độ nhớt: Khi mua nhớt chúng ta sẽ thấy có rất nhiều loại như 10W30, 20W40, 10W40 thậm chí là 10W60, vậy nếu nhớt gốc chỉ có 10W30 thì làm thế nào để có 10W60? Câu trả lời là nhà sản xuất sẽ bỏ 1 loại phụ gia tăng độ nhớt làm việc (VII) vào trong sản phẩm, đây là những phân tử ở nhiệt độ bình thường thì co lại, nhưng ở nhiệt độ cao thì giãn ra khiến độ nhớt tăng lên. Theo thời gian làm việc các VII sẽ dần bị phá huỷ bởi vậy nhớt sẽ loãng dần đi (trừ khi là nhớt tổng hợp).
- Phụ gia khác đảm bảo các chức năng khác của nhớt ở phần trên (làm sạch v.v...). Trên thế giới thực ra cũng chỉ có vài hãng sản xuất những gói phụ gia này và tất cả những nhà sản xuất đều mua hàng có sẵn về bỏ vào sản phẩm của mình. Bởi vậy nên dù là nhớt tổng hợp đi chăng nữa chúng ta vẫn nên thay thường xuyên, động cơ hoạt động sinh ra rất nhiều muội cũng như các chất bẩn khác, nhớt máy sẽ giữ các thành phần đó lại tránh gây hại cho động cơ, tuy nhiên không sớm thì muộn chúng cũng sẽ phải được thay ra.