Anh em cái đầu ku.
Tiếng chuẩn là tiếng đc ban hành bởi các văn bản pháp luật và thịnh hành ở giới quan chức mà thím. Cho nên mình nghĩ vẫn là Hán Nôm. Tiếng V sau này đc Việt hóa dần mà.
Nhìn các văn bản của CP VNDCCH, mình thấy Việt hóa chữ Latin nhưng âm hán nôm còn rất nhiều.
Ngoài ăn tục nói phét thì anh éo biết con mie gì phán liều. GG nó không tốn phí đâu, chịu khó vào xem các trang học thuật để tăng hiểu biết!
Thứ nhất, trên đời chưa bao giờ xuất hiện cái gì gọi là tiếng Hán Nôm. Chỉ có tiếng Hán, chữ Hán, và tiếng Việt, tiếng Hán Việt. Nôm tức là Nam, do ngày xưa các cụ (tầm TK 11) ức chế khi thấy nước Việt mình chưa có chữ viết riêng, mà phải dùng chữ Hán để viết, nên bàn nhau sáng tạo ra chữ (chứ không phải tiếng) Nôm. Nguyên lý của nó là căn cứ theo các chữ Hán, thêm bớt phết phẩy vào để thành chữ Nôm. Còn cách đọc các chữ Nôm đơn giản nó là tiếng Việt, ví dụ như chữ Thiên trong tiếng Hán, thêm phết phẩy ghép chữ thành chữ Nôm đọc là Trời. Về cơ bản, chữ Nôm khá khó học, chỉ lưu truyền ở tầng lớp cao, quan lại, vua chúa, nên khá hạn chế. Đó là lý do sau này các cụ chọn chữ Latin làm chữ viết (vẫn éo phải tiếng nói) cho dân dễ học, dễ xóa mù chữ.
Tiếng Hán thì đơn giản, nó là tiếng Trung Quốc, chữ Hán là chữ TQ, không giải thích nhiều.
Còn tiếng Hán Việt, nó là cách phiên âm tiếng Hán sang tiếng Việt. Nguyên nhân rất đơn giản: tiếng Việt Cổ khá ít từ vựng, và sau khi tiếp xúc với TQ, để có đủ từ vựng để miêu tả các thứ, dân mình buộc phải dùng các từ Hán để sử dụng, nhưng đã phiên âm sang Tiếng Việt. Việc này là hết sức bình thường, nếu thím nào lên Tây Nguyên sẽ thấy, tiếng Ê đê dường như chỉ có chừng vài trăm từ vựng, rất khó để có thể miêu tả mọi thứ, nên dân Ê đê 1 mặt đã bị Kinh hóa tiếng nói, 1 mặt cũng sử dụng từ Kinh trong giao tiếng bằng tiếng Ê đê để nói chuyện. Đại đa số cách đọc thì na ná, nhưng có những từ thì khác hoàn toàn. Ví dụ tôi họ Nguyễn, nhưng ở tiếng Hán, thì Nguyễn đọc đúng là Roản.
Còn tiếng Việt, thì nó đã có từ ngàn ngàn đời nay, cách phát âm có thể đổi khác ít nhiều qua nhiều thế hệ, vùng miền, nhưng ngữ pháp, cách nói là không thay đổi, và liên tục được cập nhật đổi mới thêm từ vựng. Tiếng Việt khá khó học, và ngữ pháp lại cơ bản ngược so với đại đa số các thứ tiếng phổ biến trên thế giới như tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nga, Trung ... Ví dụ, ta nói căn nhà của tôi, thì tiếng Anh là my (của tôi) house (căn nhà), tiếng Trung cũng như thế: ngã đích (của tôi) phòng tử (căn nhà). Nhưng cách đọc tên lại giống Trung họ trước tên sau ...