Chương 5: Bí mật xã Thạnh Nam
Phần 2 (2)
Nhà văn hóa xã Thạnh Nam vốn là nơi ồn ào nhất mỗi chiều, trẻ con thì tụ tập đá banh trên sân đất đỏ phía trước, trái bóng bằng nhựa mềm mòn cả vỏ, bay lộc cộc dưới chân. Người lớn thì ra vào họp hành, lúc là chuyện làng chuyện xã, lúc là mấy cuộc vận động từ thiện. Có khi là chỗ phát gạo cứu đói, có khi là nơi cưới hỏi, tiệc tùng. Mùi mồ hôi, mùi bếp than đốt cháy lá khô từ mấy hàng quán gần đó cũng lẫn vào không khí quen thuộc, đặc sệt mùi của làng quê Tây Ninh.
Nhưng hôm nay, không khí lại khác hẳn. Cánh cửa sắt cũ kẽo kẹt khi ai đó bước vào, chốt cửa bị gỉ nên không đóng khít, để gió lùa thành những tiếng rít lạnh gáy. Dưới ánh đèn vàng nhạt từ những bóng đèn tuýp cũ kỹ chớp tắt từng nhịp, cả gian nhà như ngập trong cảm giác chờ đợi âm u và uể oải. Quạt trần quay lật phật, nhưng không làm dịu được cái nóng oi của cả ngày tích lại, hòa với chút ẩm thấp và nỗi lo lắng len lỏi khắp căn phòng.
Người dân ngồi rải rác quanh các bộ bàn ghế gỗ cũ xỉn màu, ghế nào cũng kêu cót két mỗi khi ai đó xoay mình. Đa phần bà con trong xã sau khi phụ giúp đào huyệt, lo liệu việc chôn cất suốt cả ngày dưới nắng chang chang, thì giờ cũng đã lục tục về nhà nghỉ ngơi. Chỉ còn lại một nhóm nhỏ, phần lớn là những người gắn bó từ đầu với công việc lo hậu sự, phần là vài người hiếu kỳ muốn tận mắt xem thầy Hòa làm phép nên ở lại trong nhà văn hóa.
Có người vừa ăn vừa thở ra mệt nhọc, có người dựa lưng vào vách tường tróc vôi, mắt lim dim nhưng không sao chợp mắt được. Những chiếc mền mỏng, manh chiếu trải vội trên nền gạch hoa trầy xước. Bữa cơm chiều muộn chỉ là ít cơm nguội, rau muống luộc với nước chấm mặn chát, thêm vài lát thịt kho còn sót lại từ bữa trưa. Tiếng muỗi vo ve dưới ánh đèn chập chờn càng làm bầu không khí thêm bức bối.
Thầy Hòa ngồi cạnh khung cửa sổ nhỏ, ánh mắt ông không rời khỏi bầu trời phía xa nơi dãy núi Bà Đen đang chìm trong sắc tím sậm của màn đêm. Tay ông mân mê một xâu chuỗi bằng gỗ, lâu lâu lại khẽ thở dài. Bóng đèn phía trên đầu ông nhấp nháy một cái, hắt xuống gương mặt thầy những nét nhăn càng thêm hằn sâu vì lo lắng.
Khánh, lúc đó đang ngồi gần, thấy vậy thì khẽ quay sang: "Thầy đang chờ gì à?"
Thầy Hòa không quay lại, giọng ông trầm, như tự nói với mình: "Như cậu nói là từ đây lên núi Bà Đen, đi xe chỉ mất chừng một tiếng. Vậy mà đã bốn tiếng rồi, vẫn chưa có thông tin gì. Cả Diệp lẫn thằng Thạnh… cũng chưa quay lại."
Câu nói vừa dứt, Thành đang đứng gần đó cũng lên tiếng, giọng bực bội xen lẫn lo lắng: "Cái thằng Thạnh này… hồi đó nó chở má đi chùa núi Bà Đen như cơm bữa. Mỗi lần chạy thì như ma đuổi, bữa có khi chưa tới ba mươi phút là tới nơi. Giờ gì mà bốn tiếng không thấy bóng dáng!"
Thanh đứng bên, khoanh tay dựa vào cột, thở hắt ra: "Có khi nào… bị gì rồi không? Hay là đường có chuyện?"
Không ai trả lời. Câu nói cứ lơ lửng giữa không gian, vướng lại trên trần nhà như sợi mạng nhện chưa rơi. Trong góc phòng, vài người dân ngồi im thin thít, ánh mắt hoang mang không dám nhìn nhau.
Khánh móc điện thoại ra, màn hình sáng lên trong bóng tối, nhưng vẫn chỉ hiện dòng chữ lạnh lùng: “Không có tín hiệu.” Anh chau mày, nói khẽ: "Tôi tính từ chiều là chạy ra bệnh viện xã Thạnh Tây để xem Thủy với Phong ra sao. Nhưng trời tối nhanh quá. Càng lúc càng lạnh. Mà sóng thì vẫn mất, giờ ai mà dám mò ra đường chứ."
Thanh ngồi phịch xuống chiếc ghế nhựa gần đó, tay gác lên đầu gối, miệng lầm bầm: "Hồi chiều còn thấy trời trong veo, giờ cái tối nó ụp xuống nhanh thiệt. Thiệt không biết là do thời tiết… hay do cái gì khác nữa."
Thành ngồi gần bên, vẫn giữ tư thế khoanh tay, nhưng ánh mắt thì đảo nhìn xung quanh: "Cái cảm giác này... giống như có thứ gì đó đang rình rập quá. Hồi nhỏ em từng nghe bà nội kể, mấy đêm trời tối đột ngột như vầy là có điềm, không phải điềm lành."
Một cụ già ngồi gần đó hắng giọng, chen vào: "Tui nói rồi mà, đây là mấy loại quỷ bên Campuchia đó. Hồi nhỏ tui đi buôn bên đó, có người kể về con quỷ tên gì... Chhlong gì đó, chuyên đi hút máu giết người, khiến cả xóm cả làng chết hết. Chuyện này là thiệt chứ không phải đồn đâu."
Một người đàn ông khác bèn phản bác: "Chhlong gì mà Chhlong. Hồi nãy tui còn nghe thầy pháp kia nói là Thi Quỷ với Thiết Quỷ gì đó kìa. Ổng nói rõ ràng luôn mà. Không tin thì ra hỏi đi, thầy đang ngồi đó kìa."
"Ờ, thì tui đâu có cãi thầy, tui chỉ nói là có cái gì đó nó rất giống. Mà lỡ tụi nó là một đám thì sao? Một đám quỷ hợp lại... trời đất ơi, nghe rợn da gà."
Không khí trong nhà văn hóa trở nên đặc quánh. Người lớn bắt đầu xầm xì, vài người già trừng mắt nhìn nhau, như thể ai cũng có một đoạn ký ức riêng đang hiện về.
Tiếng xầm xì trong nhà văn hóa dần chuyển thành những tiếng cãi nhau nhỏ to. Vài cụ ông cụ bà vốn nổi tiếng hay bàn chuyện mê tín trong làng, giờ lại có dịp để kể hết những gì mình từng nghe, từng thấy. Một bà tóc bạc, tay còn cầm cái quạt giấy, gằn giọng: "Tao thề là hồi năm bốn mươi mốt, cha tao đi lính, có nghe kể có người bị quỷ Campuchia kéo ra giữa đồng, sáng ra chỉ còn bộ xương nằm gọn trong ruộng cỏ! Tụi bây đừng có cười! Tụi nó đi vào giấc mơ đó con ơi, trong mơ thấy cái bóng đen đứng đầu giường là sáng sau đi đời luôn!"
Một ông lão ngồi chếch bên liền gắt lại: "Bà nói như vậy thì làm sao người ta ngủ được? Chuyện gì cũng đổ cho ma quỷ Campuchia. Tui thấy chuyện này giống kiểu ma lai, mà là loại mới, loại dữ… dữ hơn hồi xưa nữa."
Lũ trẻ con, vốn đang yên vị trong lòng mẹ, bắt đầu rúc sát hơn. Một đứa cỡ sáu tuổi bật khóc thút thít. Rồi như hiệu ứng dây chuyền, vài đứa khác cũng khóc theo. Có đứa bật dậy, ùa ra cửa như chim non chạy trốn bóng diều hâu, vừa chạy vừa khóc: "Con sợ! Con sợ lắm, má ơi về nhà đi má ơi!"
Mấy bà mẹ vừa chạy theo con, vừa dỗ, vừa ngó quanh với ánh mắt bất an. Không khí trong gian nhà như chực vỡ ra trong một cú nổ vô hình, nếu không có tiếng két chói tai đột ngột vang lên.
Tất cả quay đầu lại. Cửa sắt trượt mở ra, ánh đèn vàng phía ngoài hắt vào, và một bóng người quen thuộc bước vào, đó là Cơ, môn đồ còn lại đi cùng thầy Hòa từ sáng. Trên tay cậu là hai ổ bánh mì nguội, được gói hờ bằng giấy báo.
Không gian bên ngoài đã phủ một màu xám tro nhợt nhạt. Gió lùa từng cơn vào hành lang lát xi măng, thổi tung vài tờ rơi cũ và lá khô đọng lại nơi chân tường. Ánh sáng từ nhà văn hóa hắt ra tạo thành những dải sáng yếu ớt, không đủ xua tan bóng đêm đang vây dần quanh khu dân cư vốn vắng vẻ.
Cơ bước vào trong ánh nhìn của mọi người, đi thẳng về phía thầy Hòa đang ngồi bên cửa sổ. Cậu không nói gì, chỉ chìa ổ bánh mì ra như một đứa trẻ mang quà về cho cha mình. Rồi thở dài: "Em vừa đi một vòng quanh đình... ngoài đó tối lắm, nhưng vẫn không thấy gì lạ hết thầy ơi. Từ chiều tới giờ thầy trò mình đi khắp xã rồi, cũng không phát hiện gì cả."
Thầy Hòa đưa tay nhận ổ bánh, nhưng không ăn. Ánh mắt ông vẫn nhìn ra bóng tối phía xa, như thể đang cố dò tìm một tín hiệu vô hình nào đó. Giọng ông trầm lại: "Nhưng ta vẫn có linh cảm rất lạ, Cơ à. Nhất là việc phép Huyền Minh Liên Thông không thể thi triển... Ta chưa từng thấy trường hợp nào như vậy. Diệp với thằng Thạnh giờ cũng chưa quay lại. Đã bốn tiếng rồi."
Cơ không đáp. Cậu ngồi xuống chiếc ghế gỗ đối diện, bắt đầu gặm bánh mì một cách chậm rãi. Tiếng vỏ giấy báo lạo xạo như gợn lên giữa những phút im lặng. Mắt cậu khẽ liếc nhìn thầy Hòa, rồi lại nhìn xuống đất.
Trong lòng Cơ, có một điều gì đó nghèn nghẹn. Thầy Hòa, người mà trước đây vốn là tâm điểm chọc cười của các buổi giảng ở Đạo quán, luôn biết cách biến mọi thứ thành nhẹ nhàng, luôn pha trò cả khi dạy phép. Nhưng kể từ sau trận chiến ở Bãi Đất Cấm, nơi những tà khí đen đặc như dầu hắc xộc lên từ lòng đất, nơi nhiều đạo sư và môn đồ đã hy sinh, thầy đã thay đổi.
Ánh mắt đó, dáng ngồi đó, sự trầm mặc kéo dài không nói… tất cả đều là thứ mà Cơ chưa từng thấy trước đây ở đạo sư mình kính trọng. Cơ không dám nói ra, nhưng một linh cảm trong lòng cậu cũng đang trỗi dậy.
—
Ánh đèn vàng mỏi mệt trong nhà văn hóa vẫn chập chờn nháy nhẹ từng nhịp, như chính lòng người nơi đâ, nửa muốn dứt khoát đi về, nửa lại bất an mà nán lại.
Một người đàn ông trung niên trong góc phòng vươn vai rồi lẩm bẩm: "Thôi, chắc về. Gần khuya rồi, vợ con ở nhà lo không thấy về là la làng nữa. Cũng chưa thấy chuyện gì, chắc mai tính tiếp quá bà con."
Lời ông vừa dứt thì có vài người khác cũng bắt đầu lục đục đứng dậy, nhét mấy chiếc ghế nhựa lại sát tường, lấy đèn pin, rọi bước ra phía cửa. Không khí trong phòng hơi giãn ra một chút, như vừa kịp thở sau cả ngày căng thẳng.
Nhưng đúng khoảnh khắc đó, một âm thanh lạ chợt vang lên, tiếng khục khặc như ai đó nghẹn họng. Rồi kế đó là tiếng bát đũa rơi xuống sàn choang choang.
Mọi ánh mắt lập tức đổ dồn về phía phát ra tiếng động. Một thanh niên trẻ, khoảng hai mươi tuổi, đang ngồi ở góc khuất gần bếp dã chiến, bỗng ôm bụng, miệng há hốc, mặt tái xanh. Anh ta nấc lên từng tiếng khô khốc, rồi đột ngột cúi gập người ói ra sàn. Không phải cơm, không phải thức ăn chưa tiêu… mà là một thứ nước đen đặc sệt, bốc mùi tanh như máu hôi và khói bếp ủ lâu ngày.
Người thanh niên run rẩy, toàn thân co giật, hai tay bấu vào ngực như thể muốn móc ra điều gì đó đang gào thét bên trong. Mắt cậu trợn trắng, chỉ còn tròng trắng lấp loáng phản chiếu ánh đèn. Một cô gái trẻ ngồi gần đó bỗng hét thất thanh: "Trời đất ơi! Nó bị gì vậy trời!"
Tiếng hét như mồi lửa châm vào đám cỏ khô. Một bà đứng tuổi phía cuối phòng hoảng hốt la lớn: "Tú! Mày sao vậy con? Tú ơi!"
Một cô khác ôm ngực, thét lên rồi ngã bật ra phía sau, suýt ngất. Trong thoáng chốc, căn phòng trở thành một cơn hỗn loạn. Ghế đổ lộp bộp, chén cơm văng tung tóe trên sàn, vài đứa trẻ hoảng sợ òa khóc rồi co giò chạy vụt ra khỏi cửa, khiến cánh cửa sắt kêu rít lên một tràng dài đến rợn người. Những người dân còn lại đứng bật dậy, nhốn nháo, hoảng hốt như kiến vỡ tổ.
Thầy Hòa, lúc ấy đang ngồi gần cửa sổ, liền bật dậy như chiếc lò xo bị nén lâu ngày. Ông không cần suy nghĩ, chỉ hô to: "Cơ! Theo ta!"
Cơ lập tức chạy theo sau, vừa chạy vừa kéo theo chiếc túi nhỏ đeo bên người. Khánh, Thanh và Thành cũng vội vã chạy lại. Khi tới gần, họ thấy người thanh niên kia đang quằn quại, miệng không ngừng rên rỉ, da mặt nổi gân tím.
Từ trong túi áo sơ mi nhàu nhĩ của người thanh niên, một vật nhỏ nhưng đồng xu bất ngờ rơi ra. Vật ấy rơi xuống sàn, lăn lóc trên nền gạch đầy bụi đất, va vào một chân bàn rồi chuyển hướng, lăn tròn thêm vài vòng, phát ra tiếng leng keng lạnh lẽo giữa khung cảnh hỗn loạn.
Đồng xu nhỏ đó lăn chậm lại, rồi dừng hẳn khi chạm đúng vào mũi giày của Khánh. Ánh vàng mờ mờ hắt lên từ ánh đèn khiến nó trông như một đốm lửa nhỏ trong màn đêm.
Khánh cúi xuống theo phản xạ, định đưa tay nhặt lên, nhưng giọng của thầy Hòa vang lên như roi quất: "Dừng lại, cán bộ Khánh! Đừng chạm vào nó."
Câu nói dứt khoát làm Khánh khựng lại. Anh đứng yên, mắt dõi theo bàn tay run rẩy của thầy Hòa đang cúi xuống xem xét đồng tiền. Ông không chạm vào nó bằng tay trần, mà dùng một lá bùa nhỏ để gắp lên.
Cơ tranh thủ thời gian, nhanh nhẹn mở túi vải, lấy ra một nhúm tro màu xám, thứ được Đạo quán dùng trong các nghi thức thanh tẩy có liên quan đến Địa Khí. Cậu cúi thấp xuống, tay trái rút ra một lá bùa vàng nhỏ, truyền linh lực vào đó, ánh sáng vàng nhạt từ lòng bàn tay lập tức lan dần lên mặt bùa.
Năm ngón tay phải cậu chắp lại, rồi vẽ lên không trung một ký hiệu tròn đều. Miệng cậu bắt đầu đọc chú, từng âm tiết đều đều, không lớn nhưng vang vọng rõ ràng giữa sự ồn ào ngỡ ngàng xung quanh.
"Tịnh khí quy thân, âm tà tán dị, linh hồn quy vị, kết giới định thần."
Nhúm tro được rắc thành vòng tròn quanh người thanh niên, lập tức phát ra ánh sáng lấp lánh mờ mờ như sương mù. Một luồng khí nhè nhẹ bốc lên từ lớp tro, tỏa ra mùi thơm nhẹ ngai ngái của gỗ đàn, rồi cuộn lại thành một làn khói mỏng màu vàng đục, dần dần bao quanh thân thể người đang co giật, làm dịu lại những cơn run rẩy của cậu ta.
Người thanh niên bỗng thở hắt ra một tiếng thật dài, rồi từ từ ngã gục, nhưng cơ thể đã không còn co giật nữa. Mắt nhắm lại, miệng vẫn còn dính một ít nước đen, nhưng hơi thở đã trở nên nhẹ nhàng hơn.
Thành lúc đó nhìn đồng tiền vàng, rồi chợt kêu lên: "Ủa! Thầy, anh Khánh! Cái này... cái này là của thằng Tú! Hồi chiều nó khoe với tụi con, nói là trong lúc đào huyệt, nó lượm được cái đồng tiền vàng cũ, bóng loáng! Nó còn cười hí hửng, nói chắc bán được mua xe!"
Thanh cũng gật gù xác nhận: "Đúng rồi đó! Nó đem khoe với tụi con. Nhưng mà kêu nó đưa coi thì nó cứ giấu vô túi, nói để dành tối về mới coi kỹ."
Thầy Hòa lúc ấy, đưa đồng tiền lại gần ánh đèn. Gương mặt ông cau lại, ánh mắt soi xét từng nét khắc mờ mờ trên bề mặt kim loại cũ kỹ. Những ký tự cong vòng, sắc nhọn, không phải chữ Hán, cũng không phải Việt. Ông khẽ lẩm bẩm:
"Khmer cổ... Có thể... đây là một dạng trấn yểm cổ chăng?"
Ông ngừng lại, ánh mắt bỗng đảo nhanh về phía Thành và Thanh, đang đứng nép gần đó. "Hai đứa còn nhớ rõ, cái chỗ mà thằng Tú nói lượm được đồng tiền này là chỗ nào không?"
Hai anh em nhìn nhau rồi lắc đầu. Thành nói: "Dạ... không rõ lắm, thầy ơi. Hồi chiều nó chỉ khoe tụi con, nói là đào trúng, nhưng nó không chỉ rõ ở đâu. Giờ nó xỉu rồi..."
Thanh cũng phụ họa, giọng đầy tiếc rẻ: "Nó nói xong rồi nhét túi, cứ tưởng là hên thôi. Ai mà ngờ..."
Khánh nhìn đồng tiền vàng rồi quay sang thầy Hòa, giọng thấp nhưng vẫn đủ rõ để những người quanh đó nghe thấy: "Thầy... cái đồng tiền này là sao vậy?"
Thầy Hòa gật đầu nhẹ, tay vẫn giữ tấm bùa vàng kẹp lấy mép đồng tiền. Ông không trao tận tay mà chỉ đưa đồng tiền lại gần phía Khánh, nghiêng một chút dưới ánh sáng, như để Khánh có thể nhìn rõ hơn từng chi tiết. Giọng ông trầm xuống: "Có khắc chữ Khmer cổ. Không phải đồ dùng thông thường đâu. Có thể là loại để trấn yểm gì đó."
Khánh rướn người tới, nheo mắt soi vào đồng tiền, ánh sáng vàng hắt qua rìa kim loại chiếu vào mắt anh những hoa văn uốn lượn kỳ dị. Anh lẩm bẩm: "Thật tình, nhìn vô cũng không hiểu nổi nó là cái gì... giống chữ nhưng mà lại không ra chữ."
Không khí trong nhà văn hóa lúc này tuy đã dịu lại sau cơn hỗn loạn, nhưng những cái đầu tò mò vẫn chưa chịu ngơi. Vài người dân nãy giờ lấp ló ngoài cửa giờ đã dạn dĩ hơn, thò đầu vô trong coi. Một bác gái rỉ tai người bên cạnh: "Trời đất ơi, nãy tui thấy nó ói đen thui mà còn hôi thúi thấy bà luôn đó!"
Người đàn ông kế bên lắc đầu: "Hồi chiều nó còn xách khoe nữa kìa, chớ ai mà biết cái đó nó bị yểm bùa. Tui nói rồi, đồ dưới đất mà còn sáng choang vậy thì chỉ có của người âm thôi."
Một bà cô đứng phía sau lấp ló, mắt đỏ hoe, vừa khóc vừa sợ: "Tui thấy nó ngồi ăn cơm, còn cười nói ngon lành... ai dè giờ ra như vậy. Trời ơi, má nó mà hay tin chắc ngất xỉu mất..."
Người khác, là một ông lão mặc áo thun bạc màu, nói chen vào: "Mấy người coi chừng đó. Cái đồng tiền đó nghe đâu là của tụi thầy bùa ngày xưa bên bển... bên Campuchia đó. Gặp rồi là xui cả làng chớ chẳng chơi."
Cánh cửa sắt lại rít lên, lần này không phải do gió, mà là bởi một người vừa bước vào. Giọng quen thuộc vang lên: "Chuyện gì vậy, bà con?"
Là ông Phú. Vừa nói, ông vừa chen vào trong, mắt nhìn khắp lượt. Khi thấy Tú nằm gục dưới đất, ông liền bước nhanh tới: "Tú! Trời ơi thằng nhỏ làm sao vậy nè?"
Ông quỳ xuống, dùng tay vỗ nhẹ má Tú: "Tú, tỉnh coi con. Nghe không? Nè, ráng mở mắt ra đi con."
Rồi ông quay đầu nói lớn: "Có ai mang khăn ướt không? Với thau nước nữa. Đem lẹ lên."
Có người trong đám đông nhanh chóng chạy đi lấy. Một cô bé mang tới chiếc khăn nhỏ đã thấm nước, ông Phú nhận lấy, vắt sơ rồi đắp lên trán Tú. Vừa làm ông vừa lẩm bẩm, giọng thấp nhưng vẫn nghe rõ: "Tôi tính ghé thăm thầy Hòa với mấy cậu đây một lát, ai ngờ vừa tới cổng đã thấy bà con chạy tán loạn, còn nghe có người la lên... mới hay là thằng Tú nó ngất."
Tay còn lại ông đưa xuống cổ tay cậu thanh niên để bắt mạch, rồi nghiêng đầu nghe tiếng thở yếu ớt: "Mạch yếu lắm, nhưng chưa nguy hiểm. May mà nó còn trẻ, sức khỏe tốt. Để nó nằm nghiêng thế này, kẻo bị sặc."
Xong ông quay sang nhìn đám người đang vây quanh, rồi liếc thấy đám nước đen dưới sàn:
"Ủa, nó ói cái gì mà đen thui, thúi vậy trời?"
Thầy Hòa thở ra, đáp gọn: "Đất sình. Với tà khí."
Mọi người nghe tới đó thì lại rùng mình. Không ai nói thêm, chỉ nhìn nhau với ánh mắt nửa tin nửa ngờ. Nhưng trong lòng ai nấy đều chung một cảm giác, thứ mà Tú ói ra... chắc chắn không phải từ người thường.