thảo luận Truyện ngắn Sơn Nam

HƯƠNG RỪNG

Phần 1
___Sống ở rừng U-minh hạ từ lâu rồi mà Hoàng Mai hãy còn có cảm giác như lạc loài tận đâu đâu, bước chân đi không vướng đất. Ví nàng như cánh bèo rày đây mai đó thì không đúng lắm; có lẽ nàng như đoá hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng loại hoa sen thông tục (chung chung, thông thường) quá, lại thường lọt vào tay phàm! Ðằng nầy, bẩm sinh nàng thuộc về một phẩm chất thanh cao hơn.

___— Tằng tổ (ông bà bốn đời, từ đời mình, cha, ông nội, ông cố) nhà ta vốn họ Trần, nhờ dày công phò chúa từ Thuận-hoá đến đây nên được cải ra họ Nguyễn. Niên mỗ, ngoạt mỗ, giặc Tây-sơn đến mãi tận chốn rừng già nầy, chúa Nguyễn đành ra khơi tìm nơi cứu viện. Thảm hại thay! Tằng tổ nhà ta tuổi già, nhuốm bịnh không vượt biển hộ giá được, đành cam lỗi đạo quân thần, giả dạng lê dân, nương náu nơi chốn thanh lâm u cốc. Người được phong đến chức ngự y. Gia phổ ghi chép rành rành, nội (chỉ, riêng) xứ nầy, chỉ dòng họ ta là có gia phổ, đó con.

___Cha của nàng thường nhắc nhở như vậy.

___— Là quan ngự y, cớ sao tằng tổ ta không tự chữa bịnh được. Hẳn là bịnh nan y! Thưa cha...

___Bao lần nàng ướm hỏi như vậy nhưng không dám. «Thuộc dòng hoàng phái nhưng sao Triều đình không chú ý tới mà ban cho chút bổng lộc?» Ðó là nỗi thắc mắc triền miên của nàng khi thấy cha già chuốt tre đan giỏ mà độ nhựt (sống qua ngày) hoặc ngồi buông cán câu bên bờ trúc, giữa trăm bầy muỗi rừng.

___Thỉnh thoảng, cha nàng nói khẽ như thanh minh, tự an ủi:

___— Hoàng đế đang tức vị thuộc dòng ngụy (giả mạo) do tân trào (triều đình mới, chánh phủ mới) dựng lên. Giọt máu hùng anh của tiên vương nầy đã bị lưu đày nơi hải đảo Bòn-bon, bặt tăm nhàn cá (lâu quá không có tin tức gì). Nhận chức hương giáo trong ban hội tề làng Khánh-lâm (một xã ở U-minh) sở tại, chẳng qua là cha muốn bưng bít dư luận. Bổng lộc của tân trào, cha nào màng, chỉ nguyện làm bạn bầu với cây cỏ, gió trăng.

___Ngày ngày lớn khôn, Hoàng Mai càng yên tâm tin tưởng nơi giòng máu quí phái của mình. Cội hoàng mai cổ thụ trước sân há chẳng là một bằng cớ? Bao năm rồi, nó vẫn bền gan khoe sắc khi gió Tết thổi về; vùng U-minh này mấy ai biết thưởng thức giống hoa vương giả lạc loài! Bản Nam Bình réo rắt trong ruột cây đàn thập lục (đờn tranh) chỉ để riêng cho nàng thông cảm đó thôi... Nhưng cơ trời không ai ngờ được, tránh được. Mây đẹp của đỉnh Ngự (núi Ngự Bình, Huế) còn có khi tan, nước yên lành của dòng Hương (sông Hương, Huế luôn) thường bị gợn những làn sóng nhỏ. Năm ngoái, năm kia, khi vừa quá tuổi trăng tròn (tuổi 15 của con gái), một buổi chợt soi mặt vào lu nước mưa, nàng bắt gặp cái màu trắng trong leo lẻo của làn da mình. Miệng chúm chím hàm tiếu (cười chúm chím), nàng vuốt mớ tóc đen huyền; bàn tay ngà đặt trên má đỏ hây hây, mơn man chuyền suối tóc về trên sau lưng gầy. Nhưng... lạ kìa! Hàng chục sợi tóc thi nhau tuôn xuống.

___Gió nhẹ thoảng qua; chân tóc lấm tấm đung đưa, vướng bận chưa chịu bay đi như còn than van niềm biệt ly vô cớ. Nàng cau mày trở vào phòng, cầm lược, chải kỹ. Nàng toan rú lên. Lược đùa đến đâu là tóc rụng đến đó như lá úa trên cành đến độ gió trở mùa. Nàng e thẹn. Nàng giận dỗi.

___Thân phụ nàng — ông hương giáo — chạy tới. Nàng soi gương, không day lại (không quay mặt lại) rồi trả lời về tiếng rú khi nãy:

___— Không gì lạ đâu, thưa cha.

___Ông hương giáo đã hiểu nguồn cơn. Mớ tóc rối nằm cuộn đống trên bàn khiến ông xúc cảm, không che giấu được cơn buồn. Chiếc gương mờ soi đôi má ửng của Hoàng Mai, màu ửng đỏ lạ thường, không biến đổi dầu khi nàng sợ hãi.

___— Từ hồi tấm bé, làn da của Hoàng Mai mịn quá, bóng quá. Trăm sự đều do đó mà ra...

Phần 2
___Ông thở dài, cũng như ông đã thở dài hồi mấy năm trước, tuy gió bấc về không lạnh lắm nhưng Hoàng Mai đòi đốt lửa để sưởi rồi dẫm chân lên than hồng mà cười. Ðêm đến, ông nghe tiếng rên khe khẽ. Ngỡ là con gái nhuốm bịnh, ông đến gọi cửa đôi ba lần. Hoàng Mai nằm đó, tỉnh mà như say, hơi thở hổn hển, đôi mắt úp vào chiếc gối mềm như trốn tránh mấy sợi tơ trăng buông xuống từng hồi, khi gió rạt rào khẽ rung làm hở ra mấy mí lá che trên đầu vách.

___Bịnh của nàng, ông đoán được, ngặt không muốn nói rõ tên ra: bịnh nan y — bịnh cùi. Ông chỉ khuyên con gái năng (thường xuyên) đi guốc vì ở rừng nầy... «phong» nhiều lắm. Quyển gia phổ ngủ từ lâu đời dưới lớp bụi trên bàn thờ được vời xuống. Lật ra kính cẩn dưới ánh nến bạch lạp (đèn cầy trắng dùng xe đèn và chế thuốc, vị ngọt, không độc). Hơn trăm năm qua, kiếng họ Nguyễn chưa ai nhiễm chứng ấy, rõ ràng không phải bịnh di truyền. Ông suy luận:

___— Có thể nhà mình đắp nền trên ngôi mộ xưa của ai. Và tự ngày xưa, ai dám chối rằng khu rừng nầy không là bãi sa trường mà người thắng kẻ bại đều lẫn lộn trong đống xương vô định đã hóa ra cát bụi!

___Trang phụ lục thứ sáu của quyển gia phổ thứ nhứt còn thố lộ vài chi tiết khó hiểu, viết bằng chữ nôm:

___«Ðến Ngạc-ngư-đàm tức đầm Sầu, ao Sấu, hơi sương lạnh buốt, chướng khí xây thành. Khách hỏi: loại Ngạc Ngư (cá sấu), từ đâu lạc vào đầm? Kẻ thổ dân thưa: không ai rõ. Chúng đến đây như án ngữ nẻo đường qua truông (vùng đất hoang, cây cỏ rậm rạp) quỉ. Nơi ấy, muôn nghìn ma quái như ẩn, như hiện. Lại có loài ong dị thường năng về làm ổ: loại ong này lưng nhuộm ngũ sắc, vượt thiên lý để hái nhụy trăm hoa đem về luyện ngọc. Người phàm chưa ai đến gần được.

___Chúng không sợ khói, hửi nhằm hơi kim khí (đồ bằng kim loại) ô trược (nhơ nhớp) là chúng ào ra như giông tố giết cho kỳ được kẻ ngạo mạn. Quan ngự y họ Trần biết được tin ấy bèn sai quân sĩ bày mưu kế hòng cướp ổ ong nọ, đoạt loại ngọc thiên nhiên hiếm có đem về luyện thuốc trường sinh...
»

___Tư Lập, tay thanh niên khét tiếng về nghề ăn ong ở xóm Cán-gáo được ông hương giáo mời về nhà, bày rượu thịt thết đãi, đối xử như thượng khách.

___Trang gia phổ lại giở ra, đọc nho nhỏ vừa đủ cho Tư Lập nghe. Tư Lập gật đầu.

Phần 3
___Trong rừng già nầy, bên kia ao Sấu, thỉnh thoảng loài ong ngũ sắc ấy trở về. Ban đầu chú Tư dùng con dao xương nai mà cạo lấy mật nhưng không hiệu quả. Lần sau, chú mài miếng xương người, dẹp như cây dao, theo ý muốn của ông hương giáo. Ngọc ong đã lấy được, đem về. Chú bán tín bán nghi vì thấy «ngọc» chỉ là mớ nhụy bông quến lại thành ké mà loài ong dự trữ bên góc ổ. Từ đó, ông hương giáo mời Tư Lập ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ «ngọc» để luyện, hy vọng rằng khi đúng một ngàn ngày nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai. Tư Lập như không chú ý đến điều vô lý đó, cứ ra vào nhìn trộm hình dáng giai nhân rồi nằm trằn trọc... Mãi đến một đêm nọ, lúc đứng ngắm thẩn thờ cội mai già trước sân, chú nghe hơi thở nào ấm nồng, nhồn nhột sau gáy:

___— Anh Tư ở đây vui chớ? Nãy giờ em không dám hỏi.

___Chú nhìn kỹ: không phải là dạng hồ ly tinh trêu cợt, chính là Hoàng Mai, cô gái con ông hương giáo mà bấy lâu nay chú trộm nhớ thầm thương.

___Nàng nói tiếp:

___— Cha của em dặn em gọi bằng anh, và đừng làm gì anh buồn.

___Chú hiểu ý. «À té ra bấy lâu nay ông hương giáo thương mình». Chú đánh bạo tìm bàn tay nàng. Nàng lắc đầu:

___— Em hơi mệt, như vậy...

___Rồi nàng nâng tay áo lên, thứ tay áo lõng thõng quá rộng quá dài:

___— Anh nắm cái chéo tay áo nầy, em cũng đủ vui rồi.

___Cảm động làm sao! Ngạc nhiên làm sao! Một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra. Khi níu cái chéo tay áo của người đẹp, Tư Lập thấy rõ ràng bên trong: ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế.

___Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về ở Long-xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại thì không được.
___Chú lại trở về.

Phần 4
___Sông Trèm Trẹm bắt nguồn từ xóm Cán-gáo chảy về phía Nam, qua xóm Tân-bằng rồi đổ ra sông Ông-đốc, hòa mình vào vịnh Xiêm-la.

___Thằng Kim nóng lòng, không biết Tư Lập muốn dừng lại làm ăn ở khúc nào. Giây lâu, Tư Lập nói:

___— Rừng U-minh còn nhiều bí mật! Ðừng lo mà. Tao hứa với mầy tới chỗ nầy vui lắm, đừng sợ chết đói. Có tao.

___Xuồng ngừng lại giây lát nghỉ trưa rồi mái dầm lại tiếp tục khoát dòng nước đỏ ngòm, tuy chảy mạnh nhưng tư bề khuất gió nên không gợn sóng. Ðôi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình lại, giao đầu, bắt tay nhau che kín bóng mặt trời.

___Khách đi đường ngỡ mình lạc lối trong hang, thứ hang thiên nhiên, bất tận. Có tiếng vượn hú. Từ bên nầy, con vượn bồng con, nắm sợi dây rau câu, lấy trớn đu mình sang nhánh ở bờ bên kia để hái trái vừng. Trái quá chát, vỏ quá dày, vượn nhăn mặt, bực tức ném mạnh. Trái vừng sa vào giữa lưới nhện giăng hờ, lơ lửng. Lưới rung rinh không đứt hẳn; con nhện hốt hoảng, thả sợi tơ dài, sa xuống. Chợt thấy mặt nước, nó toan rút trở lên. Nhưng trễ quá rồi! Con cá bông phóng mỏ theo, táp mạnh. Thằng Kim ngỡ đó là con trăn. Cá lớn bằng cây cột nhà, vảy xanh vảy trắng thêu từng vòng ngời lên khắp thân mình. No mồi, cá lặn sát đáy, lội nhanh. Bầy cá con hối hả di chuyển theo mẹ, hàng trăm con lấm tấm như rắc cườm đầy mặt nước, mất dạng trong bóng mát đằng kia. Bờ sông im lìm, mặt nước thẩn thờ trả lại bóng dáng hiền hòa của cây chồi mọc sát mé bãi: bông vừng buông thõng xuống từng xâu chuỗi hường, chen lấn, nối tiếp nhau như bức mành mành (lưới bằng kim loại). Nhánh vừng khô cằn, lá vàng rụng mất hẳn. Ðôi đọt non nhú lên, mỏng mịn, chưa nhuốm được màu xanh vì thiếu nắng; ở xa, trông như những cánh bướm khổng lồ đang phập phồng, ngứa ngáy, chưa đậu yên chỗ là đã chớm bay.

___— Kim, mầy biết nước sông nầy màu gì không?

___— Ở dưới sông, giống như màu máu bầm. Múc lên tay coi thì như nước trà pha đậm.

___Tư Lập day lại:

___— Hồi xưa, có người nói nó giống như cà-phê đen. Ờ... mầy uống cà-phê lần nào chưa?

___— Chưa, chú Tư à.

___— Bán thiếu gì, tại chợ Thới-bình. Dân ở chợ là người mới tới mua bán lập nghiệp, họ chưa dám đi sâu vô rừng làm ăn như tụi mình bây giờ. Họ nể nang dân phía trong này lắm.

___— Sao vậy, chú Tư?

___— Vì dân nầy là dân cố cựu, phá sơn lâm, đâm Hà Bá dọn đường cho họ tới sau làm ăn. Con nhà tướng đi mở đường máu mà!

___Tư Lập vừa nói vừa vói tay đập sau lưng. Thằng Kim đã hiểu nghĩa mấy tiếng «mở đường máu». Ba bốn đốm máu đỏ ngời; mấy con muỗi vừa bị đè nhẹp xác.

___Nó sực nhớ tới bầy muỗi bu quanh nó từ mấy ngày rày. Ban đầu, nó bực mình, đập giết thẳng tay, phải buông dầm khiến xuồng lủi vô bờ. Mỗi lần như vậy, Tư Lập day lại:

___— Cứ bơi lẹ, muỗi ít cắn hơn. Ở lầy quầy (dai dẳng) mình bị cắn nhiều mà không đi tới đâu hết. Xuống xuồng để bơi chớ đâu phải để đập muỗi!

___Nghe lời Tư Lập, thằng Kim bấm môi chịu đựng.

___Vài tiếng gà gáy văng vẳng, hưởng ứng nhau phá tan bầu không khí tĩnh mịch. Vòm cây lần lần (từ từ một cách chậm chạp) trống trải nắng rớt từng mảng, ngưng đọng không chịu trôi theo dòng nước ngày càng chảy hăng. Bên bờ, nước đổ róc rách theo con lạch nhỏ, vỏ tràm trôi lềnh bềnh trắng. Thằng Kim nôn nức:

___— Tới chỗ nghỉ chưa, chú Tư?

___— Chưa. Hai doi (khoảnh đất gie ra sông hay biển) nữa. Mầy nhớ không, hồi sáng tới giờ mới qua có sáu doi.

___Hai doi, đường còn xa. Thằng Kim yên lòng vì sẽ đến chỗ nghỉ trước khi trời sụp tối:

___— Chú có bà con ở đây hả?

___Tư Lập cau mày không trả lời, mở gói thuốc ra vấn hút. Ðó là gói thuốc mà chú hứa tiết kiệm, để dành hút khi tới nơi.

___Thằng Kim đoán chừng Tư Lập đang suy nghĩ nhiều. Chú lẩm bẩm:

___— Ừ, bà con hay là người dưng, chuyện đó không quan hệ. Nhắc tới tao buồn quá, muốn quày (quay về) trở lại bây giờ. Nhưng đã tới đây rồi không lẽ lại trở về. Tao không muốn kiếm nhà quen. Ở gần xóm đông thì bất lợi, ở xa quá cũng hại. Mày tin tao. Tao không dại gì trở lại đây mà tìm cái chết... Ờ, mầy họ gì? Mấy ngày rày, tao quên hỏi.

___— Họ Trương hay họ Trần gì đó, tôi quên rồi. Nghe nói hồi đó ba tôi đổi họ.

___— Ối! Họ gì cũng được, miễn tới chừng người ta hỏi thì đừng trả lời lập dập (không suôn sẻ). Nói vậy chớ ai xét hỏi. Tao có quen với vua. Hồi xưa, có người ở xóm nầy được cải ra họ Nguyễn cho giống với họ vua... Họ nói vậy hay (nghe) vậy.

___Thằng Kim ngơ ngác hỏi:

___— Bà con với vua sao lại ở đây?

___Tư Lập không trả lời. Chú bơi mạnh, mũi xuồng quẹo vô bờ, phía trái. Vàm (ngã ba sông rạch) mương nhỏ hiện ra. Chú nói:

___— Mầy nghỉ tay đi. Tới phiên tao rồi...

Phần 5
___Ngồi trước mũi, chú bơi phía mặt (phải) vài dầm rồi trở lẹ qua bên trái, bơi vài dầm. Xuồng lướt tới ồ ồ. Gặp dây, gặp nhánh cây cản mũi, chú bứt (rứt, lấy tay giật cho đứt), bẻ rôm rốp. Gặp nước cạn, chú đứng mà chống hoặc quì trên sạp xuồng, ngả mình tới lấy trớn. Thằng Kim vui sướng quá. Lúc nầy nó khỏe tay, dầu muốn tiếp sức với Tư Lập cũng không được. Mũi xuồng quá nhỏ, nào đủ chỗ để hai người cùng ngồi ngang nhau. Hơn nữa, bơi xuồng theo lối mới này nó chưa quen. Mặt trời sụp xuống thấp, dọi thẳng từ trước mặt. Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn ngoèo như ruột ngựa nối liền qua những lung, bàu (ao nơi đất trũng, có động nước để nuôi cá, trồng cây), tròn tròn méo méo như hình mấy cái bao tử, gan, lá lách... Sậy mọc khỏi đầu.

___Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh to nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp tứ phía. Rừng xán lạn (rực rỡ, chói lọi), ai dám nói là rừng âm u? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.

___Nó buột miệng:

___— Rừng cây gì vậy? Chú Tư.

___Tư Lập day lại, cười vang:

___— Thằng quỉ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao? Tràm chớ giống gì! Muôn ngàn hũ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay...

___Tư Lập ngâm mình dưới bưng (đồng lầy nước đọng, xung quanh toàn cây nhỏ như sậy, tranh) nãy giờ khá lâu rồi. Nước dâng lên nửa ngực. Hai tay chú quậy dưới bùn, chân bò tới lui, bọt nước sôi ùng ục. Chú rút lên một cây búa to tướng, nói huyên thiên (rùm trời):

___— Nó còn nguyên, mới tinh. Bộ (Hình như) trái đất xoay tròn sao mà! Hồi năm ngoái tao nhớ rõ ràng, nhận (đè xuống) ở gần gốc cây tràm bên kia. Bây giờ nó chạy qua bên nầy. Ðể tao rửa sạch cho mày coi. Cam đoan không có một bợn (mảng) sét, khuất dưới lớp bùn non, mưa nắng không sao thấu tới. Sét ăn hư hỏng là khi nào mình giữ không kín. Lòng người cũng vậy... Mầy chưa hiểu hả?

___Thằng Kim thật tình không hiểu câu nói lắc léo của Tư Lập. Nó không cần tìm hiểu. Cây búa khiến nó ngạc nhiên hơn: cán dài cỡ năm tấc (1 tấc = 10 cm), lưỡi cao hơn hai tấc, bề ngang lưỡi búa trên một tấc rưỡi, lớn như mấy cây búa thần mà các ông tướng hát bội thường vác ra khi đánh trận.

___— Cầm thử coi nặng không? Tay anh hùng mới cử (nhấc lên) nó được. Tạo ra lúa gạo, xuồng, chèo là nhờ nó. Nên nhà nên cửa, nên đất nên vườn, nên chồng nên vợ, xưng hùng xưng bá cũng nhờ nó.

___Tư Lập nói tiếp:

___— Ðói bụng chưa?

___— Hơi đói. Nãy giờ tôi lưỡng lự; gạo còn chừng hai nắm, không lẽ nấu cháo. Hay là mình kiếm nhà nào mượn đỡ.

___— Mượn gạo mà ăn, xưa quá! Ở xứ nầy, tao không muốn gặp mặt ai hết. Con người ta chết... không phải vì thiếu gạo. Tới lớn, mầy hiểu câu nói đó. Bây giờ đi với tao tìm nhà quen, bảnh (có gan) thì mày đi trước một lần coi!

___Nói vậy chớ Tư Lập bước trước, đạp lên choại (một loại dây leo), lên dớn (bãi cỏ trong sình lầy đọng nước) nghe sột soạt. Thay vì đi thẳng lại phía rừng tràm trắng tinh, thơm ngào ngạt, Tư Lập quẹo trở về phía rừng thấp lè tè, cây cối mọc so le hỗn loạn. Bùn non ngập mắt cá. Muỗi bay lợn cợn (tình trạng da nhiều lần tiếp xúc với vật nhỏ), vướng vít (vấn lấy) dưới chân cây còn u tối. Tư Lập khuyên nhủ:

___— Ráng chịu cực vậy! «Lô» rừng tràm đằng kia là của người ta. Rừng chồi phía nầy mới là của mình. Vắng hai năm nay, tao ngán rồi, không muốn nhớ lại cái mùi nhụy tràm.

___— Sao vậy?

___— Ðừng hỏi nữa. Tao muốn lánh mặt người quen. Mai chiều, có lẽ mình qua nơi khác. Gió thổi hiu hiu, buồn quá.

___Tư Lập thẩn thờ đôi mắt rồi bỗng nhiên khoát tay, ra dấu im lặng. Chú ngồi nép xuống. Thằng Kim cũng bắt chước, cúi đầu, ái ngại. Tư Lập cầm tay nó mà nói khẽ:

___— Ðừng động đậy, thở nhè nhẹ. Nó kìa...

___Thằng Kim ngớ ngẩn, liên tưởng đến thứ tai nạn khủng khiếp:

___— Co... ọp hả?

___— Nói bậy xui xẻo! Ong mật.

___Và nó định thần khi Tư Lập nói rõ thêm:

___— Ong mật... đi ăn bông. Bay rề qua rề lại, thấy chưa, thấp chủn trên đọt sậy kìa.

___Thằng Kim mừng rỡ:

___— Ngộ quá! Ổ nó ở đây đây, hả chú. Làm sao kiếm được? Ý! Nó lớn bằng hai con ruồi.

___Om sòm cái miệng! Về chống xuồng lại đây mau, tao chờ! Nhớ cái hộp quẹt máy.

___Thằng Kim hối hả làm y lời. Trở lại chỗ cũ, nó chợt nghe tiếng «hì» ở phía rừng tràm. Té ra nãy giờ Tư Lập lội tắt qua mương đi lại đằng ấy.

___Chú vội ngồi lên xuồng, chụp cây dầm, hờm (trong tư thế sẵn sàng xông vô) sẵn:

___— Bậy quá! Nó «đi bông» tới đây rồi mất dạng. Chờ một hồi nữa coi.

___— Ði bông là gì? Chú Tư.

___— Là đi hút nhụy bông... kìa, mê quá!

___Một con ong rồi hai con ong bay qua sát ngọn cỏ, lưng ngời những rằn xanh đỏ, hai chân sau quặp lại kẹp hai đốm vàng sậm mà thằng Kim đoán là nhụy bông. Ong vừa qua khỏi mươi thước. Tư Lập hối hả bơi xuồng theo. Nhưng hai con ong nọ lại đáp xuống, mất dạng. Chú nói:

___— Ðây là trạm thứ nhì của tụi nó. Rán chờ chút nữa. Chém chết tao cũng ăn được ổ nầy.

___Sau đôi ba lần theo dõi rồi dừng lại như vậy, Tư Lập bỗng cười vang, múa men tay chân như đứa trẻ thấy kẹo. Hàng trăm con ong bay chập chờn trước mặt, đáp xuống, vọt lên cao, không dời chỗ. Chú ngóng xem hướng gió trên ngọn cây, ra lịnh cho thằng Kim đứng im rồi chú đi khuất, chặp (một lúc) sau mang về một nắm rễ cây gừa.

___Hộp quẹt bật lửa lên. Nắm rễ gừa ngún cháy, khói bay đều. Chú nói nhỏ:

___— Ði theo tao, đừng chạy bất tử (thình lình) nghe!

___Chú phồng má thổi mạnh, khói tung bay mịt mù chưa tan là chú thổi thêm lần nữa, chân bước nhanh tới. Hiển hiện sau lớp khói mỏng kia, vật gì lạ thường như một trái cây khổng lổ, lớn bằng cái nia, đen ngòm, rực rỡ như nạm muôn ngàn hột thủy tinh chấp chóa...

___Thằng Kim há miệng:

___— Ổ ong hả? Ong đâu hết rồi?

___— Cả triệu con kết lại, nằm sắp lớp đen ngời, chớp cánh lia lịa đó không thấy sao! Ổ ở bên trong. Lên xuồng đi. Rủi bề gì tao với mầy thối lui, lặn dưới mương, úp chiếc xuồng nầy lại mà che...

___Tư Lập cầm nhánh cây khô gạt mạnh vào ổ; ong rớt xuống cỏ từng mảng, lần lần tan ra. Ổ ong khoe màu trắng tinh như sáp, treo trên khúc cây gác nghiêng: cây kèo.

___Chú quát:

___— Chống xuồng lại. Tao với mày khiêng nguyên ổ xuống. Dầu sao mình cũng mang tiếng ăn cắp của thiên hạ rồi.

___Ðặt dưới xuồng, ổ ong nức ra, mật vàng tươi chảy đọng vũng. Tư Lập chụp cây dầm, bơi trối chết, lướt qua sậy, qua năng (năn bọp mọc hoang dưới sông, ăn được). Thằng Kim cúi đầu sát ván, nhắm mắt, e (đề phòng) nhánh hai bên quật nhằm. Nó cười tươi khi thấy mái chòi hoang hiện ra trước mặt, Tư Lập trao cây dầm cho nó thò tay xé tàn ong:

___— Trời ơi! Tao hại tao! Tao ăn cắp... của tao.

___— Chú nói gì?

___- Miếng kèo bằng cây nhum. Hồi năm ngoái tao gởi nó lại cho người quen. Chữ «điền» tao khắc làm dấu rành rành.

___Cây rừng chuyển răng rắc. Ðâu đây có tiếng chưởi thề ỏm tỏi xen vào tiếng dầm khuấy nước. Tư Lập cau mày:

___— Họ đi theo dấu bắt tụi mình. Không khéo lại xảy ra đâm chém uổng mạng. Nhiều khi họ mạo nhận là của họ để hăm dọa mình. Lát nữa, mầy đừng yếu bóng vía... Cứ cãi lại cho tao.

___Thằng Kim giựt mình:

___— Chú đi đâu? Một mình tôi không dám...

___— Tao núp sau hè. Họ tới kìa! Cầm búa lên! Ðụng độ thì tao ra ăn thua.

Phần 6
___Nhanh như chớp, Tư Lập bước lui, ngồi khuất sau bụi mật cật (một loại cây bụi, lá kép rẽ quạt). Thằng Kim nhìn trước mặt. Hàng cây rung rinh, rẽ ra. Một người vạm vỡ cầm búa, bước tới:

___— Khôn thì chịu tội. Thằng kia, mầy ở xóm nào tới?

___Thằng Kim cố giữ sắc trầm tĩnh:

___— Tôi ở đây, mần ăn...

___— Ăn cắp chớ mần ăn? Tao theo dấu tụi bây nãy giờ. Công trình (Công sức) mấy tháng nay tao tạo sẵn để mày hưởng! Ðã ăn cắp mà lại còn gỡ luôn tấm kèo, chẳng khác nào ăn trộm rồi đốt luôn nhà của tài gia (tài chủ).

___— Tôi không biết gì hết...

___— Chém chết mẹ chớ không biết!

___Lưỡi búa của khách hươi lên. Thằng Kim cũng nâng cây búa một cách vụng về. Khách nhìn nó, ngạc nhiên rồi nhìn cây búa:

___— Mày ăn trộm búa nữa hả? Ráng mà đỡ, nè!

___Hoảng hốt, Tư Lập nhảy ra, nắm cườm tay người khách lạ:

___— Tao ở nhà ông hương giáo hồi xưa đây mà. Chú mầy đến sau nên không biết rõ tao là ai.

___Khách trố mắt:

___— Trời! Cậu Tư. Về hồi nào! Trời... nãy giờ thấy cây búa, tôi hồ nghi là của cậu. Sao không lại thăm cô Hoàng Mai?

___Tư Lập vuốt mồ hôi trán:

___— Thôi! Về đi. Nhắn với ông hương giáo rằng tối nay tao tới.

___Khách nói:

___— Buồn lắm! Cô Hoàng Mai yếu nhiều.

___Tư Lập thở dài:

___— Vậy hả? Ðừng nói nữa. Về trước đi.

___Khách rút lui. Tư Lập nói ngậm ngùi:

___— Trốn mà không khỏi. Trốn Tây tà là chuyện dễ; trốn người quen là chuyện khó hơn. Ta ăn cắp ổ ong khi nãy mà chi? Nghề ăn ong có nghiệp chướng... Ðây là ổ ong cuối cùng của tao trong nghề...

___Thằng Kim hỏi:

___— Sao vậy? Ai đau nhiều vậy chú? Cô Hoàng Mai là người bà con...

___— Bà con không phải bà con. Người dưng không phải người dưng. Tối nay mầy thay mặt tao, lại đó mà thăm ông hương giáo. Phần tao, tao phải xa rừng nầy. Ở lại đây, mầy có dịp học khôn. Ðừng buồn. Ðể tao nói lại đầu đuôi sự tích, hồi năm trước...

___Nghe xong thằng Kim đi từng bước chậm rãi đến nhà ông hương giáo. Câu chuyện tình của Tư Lập hãy còn lâng lâng trong trí nó. Gió chiều nhẹ thổi. Mùi bông tràm ngào ngạt. Nó nhìn từng gốc cây, lắng nghe từng tiếng lá trở mình mà khoan khoái trong lòng. Rừng U-minh này đối với nó cơ hồ không còn gì là bí mật khó hiểu nữa.

Phần cuối
___Ðến nhà ông hương giáo, nó được thết đãi cơm nước tử tế. Ông hương giáo không nói chuyện nhiều. Nó nói dối rằng... chừng lát nữa Tư Lập sẽ đến. Nhưng Tư Lập có đến đâu! Ðêm đó, nó được nằm ngủ trên ván gõ, trải chiếu bông, giăng mùng rộng rãi. Nửa đêm, nó chợt tỉnh vì ánh đèn chói mắt.

___Ông hương giáo nói:

___— Chú em thức hả! Kìa! Trên bàn thờ, từ bao năm rồi, tôi luyện «ngọc ong» để trị bịnh. Bịnh gì chắc Tư Lập nói sơ cho chú em hiểu rồi. Tôi buồn quá. Tư Lập không trở lại nhà nầy nữa đâu. Chú em cứ nói thiệt. Phải vậy không?

___Thằng Kim nói:

___— Dạ cháu không biết. Chú Tư không nói rõ...

___— Ta hiểu lắm. Dầu sao, trở về lần này, Tư Lập cũng đã tỏ ra có nghĩa! Ai nỡ câu thúc chí trai của mình trong một xó để đổi lấy chữ nhàn? Ai nỡ bỏ cái danh dự để mua chuộc một chức tước quí phái huyền hão. Từ xưa, tằng tổ của ta cũng vì khí khái ấy mà phò Chúa, xiêu lạc đến đây! Bây giờ ta yếu lắm rồi. Dầu muốn bắt chước Tư Lập, ta cũng không còn đủ sức lực mà bắt chước. Gia thế của ta, thiên hạ đã rõ. Câu thúc Tư Lập ở mãi tại đây chăng? Ta chỉ là người hương giáo, quyền hạn gì? Ừ! Tội là tội cho Hoàng Mai. Năm nay, nó ngồi một chỗ, không còn đủ sức mà ra thăm cội hoàng mai ngõ trước, như hồi Tư Lập biết...

___Sáng hôm sau, thằng Kim từ giã ông hương giáo rồi đến ngồi bên mé rạch. Bông vừng tươi thắm, cây cối hai bên bờ giao đầu lại, mát mẻ. Nó chờ đón bất cứ xuồng ghe ai, đi về đâu cũng được, để quá giang. Sau lưng nó, trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng...
 
Last edited:
XUẤT QUỶ NHẬP THẦN

Phần 1
___Năm hết, Tết đến. Thầy hương quản (chức giữ an ninh trật tự, truy tầm tội phạm, dẫn nạp phạm nhân) Sum ngồi nhà, suốt ngày nghe ngóng nhiều nguồn tin quái đản: ăn trộm quá nhiều, mỗi đêm xảy ra bốn năm vụ. Bọn bất lương không từ bỏ bất cứ món nào. Quần áo phơi ngoài sân cũng mất. Gà vịt cũng mất. Xuồng đậu dưới bến cũng bị rút, giữa ban ngày. Lại xảy ra vài đám cháy nhà, bọn bất lương nhân cơ hội ấy lẻn vào nhà mấy kẻ hiếu kỳ. Rốt cuộc, nhà cháy sơ sài chẳng mất bao nhiêu nhưng trái lại, kẻ không bị cháy nhà lại mất của nhiều.

___Muốn truy nã thủ phạm, thầy hương quản Sum liền ra quán hủ tiếu của chệc (tiếng gọi người Ba Tàu) Kỵ, tại chợ Sóc Xoài, cách nhà thầy chừng ngàn thước. “Nhứt bến đò, nhì lò rèn”. Hơn mười năm trong nghề, thầy hương quản đã suy ngẫm câu nói chí lí ấy. Bến đò là nơi tập trung bao nhiêu tin tức. Trong lúc chờ đò qua sông, người ta gặp nhau, loan báo nhiều tin động trời, từ thôn xóm xa xôi. Và tại lò rèn, lúc chăm sóc món hàng do mình đặt ra, người ta sẵn sàng trút ra bao nhiêu tâm sự: anh Giáp làm giàu quá mau, anh Ất sợ vợ, chị B. chồng chết chưa kịp mãn tang mà đã chưng diện phè phỡn, ông Tý suốt ngày ở không mà tại sao có tiền xài hoài...

___Chợ Sóc Xoài nhóm vào buổi sáng. Nó ngẫu nhiên đóng vai trò tập trung tin tức, như cái bến đò, cái lò rèn.

___Vài người ngồi gần thầy hương quản Sum. Họ than phiền những vụ ăn trộm lạ kỳ mới đây: thí dụ như chiếc xuồng của Ba Tôi bị mất, dè đâu nó đậu trước bến nhà ông hương thân Chỉ; chậu kiểng nhà hương ấp Triệu lại lạc qua trước cổng công sở, như có bàn tay vô hình nào khuấy rối. Lạ hơn hết là cái quần lãnh (quần dài màu đen bóng, có dây thun) của cô Út (con gái ông hương cả) lại treo cao trước nhà ông già Hy, một ông lão chẳng bao giờ có vợ. Nghe qua, thầy hương quản nói:

— Bà con đừng bịa đặt nhiều chuyện lạ lùng như vậy. Đừng làm cho tôi rối trí thêm. Chẳng lẽ đời nay lại có bọn ăn trộm «nghĩa hiệp», làm chuyện khôi hài!

___Số người tò mò xúm lại gần thầy hương quản. Chủ quán hủ tiếu rất đỗi vui mừng. Mỗi người ít ra cũng «kêu» một tách cà phê đen nhỏ, hoặc một xu rượu đế.

___Một người trong bọn nói:

— Thủ phạm là Năm Tiết. Ông ta xuất hiện từ mấy ngày rày (nay), ghê gớm lắm, từ núi Tà Lơn...

Các bạn hàng hỏi thăm qua lại:

— Người ở núi Tà Lơn thì ai cũng hai tay hai chân như chúng mình thôi.

— Đâu phải vậy. Năm Tiết có tài nhâm độn (biết trước chuyện tương lai), xuất quỉ nhập thần, gọi nôm na là phép tàng hình. Ông ta chun (bò qua) ngang qua vách tường, chẳng cần cạy cửa. Vừa mới thấy dạng ông ta uống rượu ở quán hủ tiếu thì vài phút sau, ông ta xuất hiện trước sân đình làng, cách xa hàng bốn năm cây số.

___Có người bi quan, thở dài ngao ngán:

— Điệu (tình trạng bất lợi) nầy, ban đêm nó «tàng hình» chun lén vô phòng ngủ của mấy nàng «mẹ góa con côi» hoặc mấy cô gái «già kén kẹn hom». Phải trị nó mới được. Nếu để nó lộng hành thì Tết nầy xóm mình ăn ngủ mất ngon.

___Trong khi ấy, thầy hương quản Sum ung dung ăn hủ tiếu. Ăn xong, thầy gọi một ly rượu hổ cốt, nói lẩm bẩm:

— Bà con đừng lo. Để tôi trị nó. Nhưng trước tiên, bà con cần cho tôi biết hình dáng Năm Tiết ra sao, giỏi võ nghệ tới mức nào. Đối với kẻ gian manh, mình không nên sợ bóng sợ gió. Nó đang ở tại đâu? Nhà ai chứa chấp nó?

Cử tọa im lặng, tin tưởng nơi tài trí của thầy hương quản Sum. Thầy hương quản tuy già hơn năm mươi nhưng bay nhảy nào kém bọn thanh niên. Năm ngoái, thầy dám cưỡi trâu để rượt theo bọn ăn trộm trâu, đến tận làng Mỹ Lâm, xa hàng chục cây số, bắt sống tên chủ phồn (thủ lãnh đám trộm) đem về căng nọc (cắm cọc dưới đất, cột giăng tay chân vô để đánh đòn) đánh mười roi rồi thả ra...

___Hồi lâu, không một ai lên tiếng trả lời. Thầy hương đứng dậy nói:

— Rõ ràng là tin thất thiệt. Nhưng tôi không chú ý tới tên Năm Tiết. Ai gặp nó, cứ báo tin cho tôi biết, sớm chừng nào hay chừng ấy. Tôi phải bắt nó, làm «ăn kết» (enquête, tiếng Pháp, điều tra, lấy lời khai, lập biên bản) trước khi Tết đến.

___Ngạc nhiên làm sao! Ngay lúc đó, một gã mặt mày đen thui, tóc rễ tre bước vào tiệm như để chận đầu thầy hương quản Sum:

— Kính chào «tôn ông» (ngài). Tôi đây là Năm Tiết, đến ra mắt chờ «tôn ông», dạy việc.

Phần 2
___Thầy hương quản sửng sốt. Rõ ràng Năm Tiết toan đùa giỡn trước hang hùm, khinh khi hương chức hội tề, giữa số người đông đảo. Tuy nhiên, thầy cố nén cơn giận:

— Chào anh Năm Tiết. Ngồi uống rượu chơi!
Rồi thầy day qua chủ tiệm:

— Đem một chai rượu hổ cốt. Nướng vài miếng khô cá đuối.

___Thật là quân tử gặp quân tử! Dân chúng bu lại đen nghẹt, vây chặt cửa quán hủ tiếu. Rót rượu ra đầy hai chén, thầy hương lên giọng:

— Năm Tiết, em cứ uống. Nãy giờ chú em ở đâu tôi không thấy? Thiên hạ đồn đãi, cho rằng chú em già tuổi, già kinh nghiệm, già bùa phép. Chú em ở đâu, nãy giờ?

___Năm Tiết từ từ uống rượu rồi lạnh lùng đặt chén xuống bàn.

— Dạ... dạ. Một năm tôi tắm một lần để xổ xui, ăn Tết. Bỗng nhiên, có con diều bay ngang đầu tôi. Tôi nhắm theo hướng con diều, ủa, con thần điểu ấy, lên bờ rồi tới đây. Dọc đường, lỗ tai tôi ngứa ngáy quá chừng. Tôi hiểu rằng mình đang mắc tiếng thị phi của bà con ruột thịt.

___Thầy hương quản cố nén cơn tức giận một lần nữa. Thầy cau mày, nghĩ ra cách ứng phó.

___Ngoài cửa tiệm, nhiều người nói to:

— Quả thật Năm Tiết biết tàng hình rồi! Từ đây xuống mé sông xa cách hàng bốn năm công đất (1 công đất = 1000 m2), lại ngược gió. Làm sao hắn nghe lén, ngứa ngáy lỗ tai được? Bắt nó lập tức. Đừng để cho cọp chạy về rừng.

___Năm Tiết chắp tay, nói nhỏ với thầy hương quản Sum:

— Tôn ông vốn là kẻ quân tử, xin phân xử giùm. Tôi đã làm hại ai đâu mà thiên hạ so sánh với loài cọp dữ.

___Thầy hương quản ra phía cửa tiệm:

— Mời bà con... ai về nhà nấy. Trước khi lên án người nào, mình nên tìm đủ bằng cớ hoặc bắt quả tang.

___Vài người nói to:

— Nó ăn trộm theo kiểu tàng hình làm sao bắt quả tang được. Thầy dám bảo đảm nó là người vô tội không?

___Một sáng kiến nảy ra trong trí thầy hương quản:

— Được rồi! Nếu bà con xóm nầy bị ăn trộm thì tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tôi là hương quản mà! Tôi đâu phải là đồng lõa với Năm Tiết.

___Ai nấy hớn hở, từ từ rút lui về nhà. Tuy có sự bảo đảm của thầy hương quản nhưng dân làng vẫn lo phòng thủ: sửa chốt cửa, nhốt chó trong nhà, mài dao mác.

___Tại tiệm hủ tiếu, Năm Tiết lộ vẻ cảm động:

— Tôi đội ơn «tôn ông» nhiều lắm. Nếu tôn ông xúi giục, lên án tôi thì khi nãy tôi đã bị xé xác.

___Thầy hương quản đắc ý:

— Tôi thương chú em là người quân tử, có tài cao. Tôi muốn bảo vệ sinh mạng cho chú em.

___Năm Tiết cười khanh khách:

— Còn lâu! Tôi sẽ giết lũ người ấy, như giết con kiến. Rồi tàng hình, qua xóm khác... làm ăn. Mạng tôi coi vậy mà dai, đâu có bở như họ lầm tưởng.

___Thầy hương quản trố mắt:

— Chú em biết tàng hình thiệt à! Chú em làm nghề đạo chích?

— Dạ, biết sơ sơ, đủ sống vậy thôi.

— Chú em nói thật hay là nói giỡn? Ai dạy chú em cái phép tàng hình, nham độn ấy?

— Dạ, đây là chốn đông người, khó nói lắm... Nếu cần làm «ăn kết» thì lát nữa, xin tôn ông cho tôi đi theo, về nhà tôn ông để xin vài hột cơm, ăn dằn bụng. Đối với tôn ông là kẻ nhiều quyền thế, tôi đâu dám giỡn mặt.

___Cả hai rời khỏi quán. Vừa đến nhà, thầy hương quản leo thang lên sàn (vùng nước lụt, ai nấy đều cất nhà cao cẳng), thúc hối gia nhân nấu cơm, đãi khách quý.

Phần 3
___Nằm trên sàn nhà, Năm Tiết mỉm cười hoài. Thầy hương quản ngạc nhiên:

— Chú em khoái chí điều gì? Hay là cười cái nhà cao cẳng nầy. Nước lụt mỗi năm ngập lé đé (thấp lè tè).

— Dạ thưa tôn ông, tôi cười chuyện khác. Chẳng hiểu tại sao dân chúng xóm nầy nhẹ dạ, dễ tin bậy bạ vậy. Ban nãy, tôi đứng lẫn lộn trong đám đông, chừng nghe thiên hạ phàn nàn, coi thường chức vụ hương quản của tôn ông, tôi chạy vô tiệm rồi xưng danh. Thế mà khi nghe tôi khoe rằng mình mới tắm dưới sông chợt thấy điềm con «thần điểu», ai nấy đều tin lời. Họ quên chú ý rằng mái tóc và tay chân của tôi hồi nãy vẫn khô ran, không một giọt nước dính da.

___Thầy hương quản gật đầu. Bấy giờ, thầy mới hiểu Năm Tiết là kẻ quỉ quyệt đánh lừa dân chúng, hiểu rành tâm lý của đám đông. Hắn dùng chiến thuật mềm dẻo, giả như kẻ «làm nhu» để chờ dịp «vác cái lu mà chạy». Tuy nằm trên sàn nhà, hắn vẫn dòm láo liên, hướng về cái tủ (đựng cây súng lửa) và cửa trước, cửa sau.
Mâm cơm dọn xong, thầy hương quản mời khách, rót rượu. Hồi lâu, men rượu thấm ngà ngà, thầy mới hỏi khẽ:

— Tôi hỏi thiệt nghe chú em.

Năm Tiết vẫn gắp thịt gà, đáp lại:

— Tôn ông cứ hỏi. Ở đây vắng vẻ, tôi sẵn sàng thổ lộ tất cả tâm sự nhà nghề, gọi là đền đáp tấm thạnh tình.

— Hay quá! Nè! Chú em giỏi về phép nham độn tàng hình phải không?

— Dạ, xưa kia tôi học lóm, xài tạm được. Từ khi gần gũi đàn bà tới giờ, bao nhiêu bùa phép hết linh rồi.

— Nhờ phép tàng hình mà chú em sống bằng nghề ăn trộm?

— Dạ, tôi giải nghệ từ lâu rồi.

- Thiệt hay chơi? Nếu giải nghệ, tại sao thiên hạ còn bêu xấu chú em? Không có lửa làm sao có khói?

___Năm Tiết đặt đôi đũa xuống mâm, nhìn trân trân thầy hương quản:

- Nếu còn ăn trộm theo lối tàng hình để mà coi chơi cho vui thì tối nay tôi ra nghề thử cho tôn ông tha hồ rình rập. Tôi sẽ ăn trộm tại nhà nầy. Nói trước cho tôn ông biết.

- Úy! Thật sao?

- Thật chớ. Quân tử nhất ngôn. Tối nay, đúng canh ba (12g đêm), khi cái đồng hồ của tôn ông gõ 12 tiếng, tôn ông hãy dùng chĩa sửa soạn đâm tôi.

___Tàn buổi cơm, Năm Tiết xin cáo từ thầy hương quản Sum, với lý do dễ hiểu:

— Chẳng lẽ tôi ngủ nhà tôn ông rồi tôi đành phản bội, ăn cắp tiền bạc của tôn ông. Như vậy là «dòi trong xương dòi ra» làm sao gọi là tàng hình? Đêm nay, từ ngoài sân, tôi sẽ hóa phép... chui lên sàn nhà. Xin tôn ông chú ý. Giữa hai người quân tử như nhau, xin tôn ông đừng bố trí nhiều người rình rập, gây náo động chòm xóm. Nhứt là đừng bắn súng. Phần tôi, tôi hứa trả lại tất cả tiền bạc của tôn ông. Thôi! Gần tới giờ «nhập thần» rồi. Tôi đi đây.

Phần 4
___Đêm ấy, thầy hương quản thức chờ đợi. Nhìn đồng hồ trên vách, thầy nghĩ thầm:

— Mười một giờ mình hãy uống rượu, dưỡng sức.

___Rồi thầy đi lấy cây chĩa sắt, mài thật nhọn mũi. Trong tâm trí, thầy thử vạch ra những thủ đoạn mà Năm Tiết sắp thi hành.

___Hồi chiều, thầy cho người theo dõi Năm Tiết. Hắn cứ ngồi uống rượu tại quán hủ tiếu như kẻ vô sự. Trước khi đóng cửa trước và sau, ban nãy thầy đã quan sát kỹ lưỡng, đề phòng trường hợp Năm Tiết núp lén trong kẹt vách hoặc đeo tòn ten trên đòn dông nhà.

___Đồng hồ gõ 11 giờ rưỡi. Rôi cây kim dài nhích lên 11 giờ 45 phút. Thầy hương quản tắt đèn, tay cầm một cây chĩa cán dài, mũi nhọn và bén. Đồng hồ gõ 12 tiếng chậm rãi, ngân nga.

___Từ dưới sàn nhà, vang lên giọng nói thì thào:

— Thầy hương quản ơi! Coi chừng. Tôi là Năm Tiết đây. Đúng giờ ăn thua rồi đó!

___Thầy hương quản phục thầm tánh tình cương nghị của Năm Tiết. Thầy không thèm lên tiếng, sợ lộ bí mật. Thầy quì xuống sàn nhà, bò lết tới, cúi mặt nhìn qua kẽ ván.

___Bên dưới, trời tối om om.

___Dường như có một bóng người thấp thoáng, khum lưng. Bỗng nhiên, giữa hai kẽ ván, cái bóng lóm thóm đó dừng lại.

___Nhanh như chớp, thầy hương quản đưa tay lên cao để lấy trớn, ghìm mũi chĩa ngay kẽ ván của sàn nhà.

___Thầy nín thở, định thần rồi rút chĩa lên, lấy trớn lần thứ nhì, thình lình cắm mũi chĩa xuống đụng đất, cắm phụp.

___Một tiếng cười khiêu khích vang lên:

— Xí hụt! Đâm cũng giỏi, rình cũng công phu nhưng hơi trật. Tôi đây nè! Thầy hương quản thấy rõ chưa. Cho phép thầy đâm một lần nhì cho đổ máu, hả giận!

___Thầy hương quản tức trí, rút mũi chĩa lên rồi nhắm ngay cái bóng đen mà đâm xuống.

___Phụp!

___Lần này, mũi chĩa đụng vật gì mềm mềm, dội lại, mũi chĩa run rẩy. Vài tiếng ho, tiếng cười, tiếng rú ma quái vang lên.

___Lập tức, thầy hương quản ghìm cây chĩa. Dường như kẻ khuất mặt đang cố gắng, gỡ mũi chĩa để tẩu thoát.

___Thầy hương quản quên tất cả những sự cam kết, hô to:

— Ăn trộm tàng hình! Bắt nó. Bắt thằng Năm Tiết. Tôi đâm nó lủng ruột rồi!

___Ai nấy chạy nhanh đến nhà thầy hương quản. Hàng chục cây đuốc đốt lên, sáng ngời.

___Thầy hương quản nói to:

— Ngay dưới sàn, chỗ đó đó!

___Mọi người đều la lớn:

— Máu, máu tuôn xối xả. Để nó chạy vuột, uổng quá! Máu chảy ướt đầm nè!

___Vũng máu chưa đông kịp, phản chiếu đỏ ngời, nóng hổi.
Thầy hương quản xuống thang, đến tận vũng máu mà xem:

— Bậy quá. Tôi đâm trúng nó. Nó la xí hụt để gạt tôi. Tôi rút mũi chĩa lên. Thừa cơ hội đó, nó tẩu thoát. Chắc nó bị thương, chết bờ chết bụi, nằm đâu đây chớ chẳng xa.

___Vài người có sáng kiến, đem chó săn tới, lùng bắt. Gà gáy canh tư (1g sáng). Chẳng ai thấy xác Năm Tiết đâu cả.

Phần cuối
___Sáng hôm sau, Năm Tiết lại ung dung vào quán hủ tiếu, gương mặt tươi rói, mình mẩy lành lặn. Thiên hạ bu chung quanh hắn.

___Hắn cười giòn:

— Tôi đây nè! Tàng hình như vậy, sướng mắt bà con chưa! Bà con hãy trầm tĩnh. Nếu mình mẩy tôi có thương tích, xin bà con bắt tôi về trộm cắp. Bằng không, bà con hãy thết đãi tôi một chai rượu con cọp.

___Thầy hương quản đến vỗ vai Năm Tiết:

— Ghê quá. Gặp chú em, tôi ngỡ là chiêm bao. Mời chú em về nhà tôi, ăn cơm rồi dạy tôi phép tàng hình.

___Năm Tiết đứng dậy. Hai người cùng đi. Đến quãng đường vắng vẻ, thầy hương quản hỏi:

— Hồi tối, chú em chạy vuột hả? Tôi đâm trúng ngay chỗ nào?

___Năm Tiết trố mắt:

— Làm sao trúng da thịt tôi được?
— Cái vũng máu sờ sờ đó!
— Đó là vũng máu chó, thưa tôn ông. Tôi bắt đem theo một con chó, buộc miệng nó lại rồi nhử cho ông đâm ngay con chó cho ông... sướng tay! Xác con chó đó, tôi quăng trong bụi tre. Nhưng tôi giấu kín chuyện đó.
— Chi vậy?
— Để cho thiên hạ phục tài đâm bá phát bá trúng của tôn ông. Đồng thời, họ ngán cái tài nham độn, tàng hình của tôi. Thế là thủ huề, ai nấy đều còn danh dự. Thật ra, tôi chẳng biết nham độn, tàng hình gì cả.
— Ủa!
— Tôi nói tôn ông nghe. Thay vì đưa một khúc chuối cây, một cái nồi để chủ nhà đâm lầm lẫn như mấy đứa ăn trộm khác, tôi đưa ra một con chó, cho đổ máu. Vậy thôi, chuyện dễ hiểu quá. Như tôi tắm ở dưới sông mà tóc tai khô queo hồi trưa hôm qua. Thiên hạ lúc quá hăng hái thường quên chuyện nhỏ nhặt quan trọng. Đó là thói thường.
 
Last edited:
Back
Top