Mình k có nghiên cứu, chủ yếu biết đc vài thông tin qua phim ảnh và những bài viết ngắn trên mạng thôi chứ k biết rằng nho gia bên tàu cũng nghiên cứu khoa học. Nhưng nếu như vậy thì khoa kỹ phương đông cũng phải phát triển chứ sao lại tậm tịt như thế
Đọc thử bài này
Tính độc đáo của toán học Trung Hoa
***
Trong toán học Trung Hoa cổ truyền, không có những biện luận hình học dựa trên những tiên đề, định đề, định nghĩa và định lý. Không có những chân lý tuyệt đối theo kiểu Euclide mà chỉ có những chân lý tương đối và tạm thời. Trong hình học, không có góc và cả đường song song; mà chỉ có chiều dài, diện tích và thể tích. Cũng không có đại số theo kiểu Ả Rập, không có việc tìm căn phương trình bằng cách dùng dấu căn hoặc những đường cong đại số cắt nhau. Cũng không có đại số “hùng biện'', tức là trình bày bằng những câu văn dài dòng.
Dẫu vậy, toán học Trung Hoa không phải dựa trên những phương pháp thuần túy kinh nghiêm chủ nghĩa mà dựa trên những nguyên lý khám phá: tức là nhấn mạnh đến quá trình khám phá hớn trình bày cẩn thận mọi chi liết trong biện luận về cái được gọi là mặc nhiên.
Ví dụ, một trong những nguyên lý cơ bản của hình học Trung Hoa nói rằng, diện tích hay thể tích của một hình sẽ không thay đổi sau khi nó bị chia nhỏ và được ghép lại, cho dù số các mảnh vụn đó có thể là vô cùng.
Loại nguyên lý này hoàn toàn không loại trừ việc dùng đến môt hệ tiên đề; nhưng trong thực tế, các hình học của Trung Hoa thường không phải là trừu tượng. Trái lại, chúng là những mảnh hoàn toàn có thể sờ mó được của một hình chắp, có thể nhận ra được bằng màu sắc của chúng và có thể tha hồ điều khiển. Hình học Trung Hoa chủ yếu dựa trên việc xem xét khéo léo và tỉ mỉ 1 số kết quả. Phương pháp này không chỉ giữ một vai trò quan trọng trong tính toán diên tích và thể tích, mà cả trong việc nêu bật một số thuộc tính của tam giác vuông; trong việc tính tổng một dãy, giải các phương trình hay các hệ phương trình, và trong sự tương đương của đồng nhất thức toán học.
****
Ngoài ra, hình học Trung Hoa không thấy có gì sai trái (quan điểm của Eucliđe cũng vậy) trong việc dùng những tính toán hoặc bất kỳ phương pháp nào khác có ích để giải một bài toán nhất định. Thái độ ấy cho thấy ảnh hưởng của Đạo Lão rất lớn. Thực vậy, các nhà toán học Trung Hoa từ Thế kỷ III đến Thế kỷ V, tỏ ra vô cùng khâm phục Trang Tử; không coi ngôn ngữ là phương tiện hữu hiệu nhất để tiếp cận thực tế, với lý do là những biện luận giả đối của các nhà ngụy biện đã cho thấy những giới hạn ngôn ngữ. Trang Tử kết luận rằng, biện luận bằng lời, có khả năng đưa đến những kết luận rõ ràng sai trái, không phải là một biện pháp chắc chắn để đạt tới thực tế. Do đó, các nhà toán học Trung Hoa chịu ảnh hưởng của Đạo Lão, có xu hướng chỉ dành cho ngôn ngữ niềm tin hạn chế. Ngược lại, có xu hưởng sử dụng mọi phương tiện có trang tay, không bao giờ coi nhẹ việc kiểm chứng cụ thể của các giác quan. Vĩ lẽ đó, họ rất ham thích các phép tính toán và mọi thao tác chừng nào có thể tránh đặt chúng thành lời, Họ chỉ dùng đến biện luận bằng lời làm phương sách cuối cùng, khi khỏng có cách nào tốt hơn. Làm sao các nhà toán học bề ngoài chỉ biết những khía cạnh cụ thể như vậy, kết quả chỉ sản sinh ra những kết quả tinh vi? Thực ra, tính chất thực hành của toán học Trung Hoa hoàn toàn không có nghĩa là thiếu trừu tượng. Ngược lại, một số kết quả thu được qua thao tác những mảnh chắp hình cho thấy, họ rất khéo léo và tài tình có khả năng trừu tượng hóa cao! Ngoài ra, các nhà toán học Trung Hoa nhiều khi chủ tâm bóp méo thực tể, vì họ không thể dễ dàng giảng dạy môn học này bằng cách sử dụng làm ví dụ những bài toán ngày càng phức tạp của cuộc sống hằng ngày. Vì lẽ đó, nhiều bài toán Trung Hoa che đậy những tình huống hoàn toàn hư cấu dưới bề ngoài cụ thể: những giá trị không thể có được trong thực tế hoặc quá lớn, hoặc quá nhỏ, hoăc vô nghĩa (dùng phân số khi nói về người); những số liệu kết hợp với nhau một cách tùy tiện, những khi cộng diện tích với thể tích và giá cả; đảo ngược vai trò của thông số và ẩn số như khí tính kích thước của các vật thể khi bỉết thể tích, hoặc tính vốn khi biết lãi, hoặc tính tổng lượng hàng khi biết phần chia cho mỗi người. Rõ ràng, những phương pháp đó cho phép mở ra tình huống lý thú hơn rất nhiều xét theo quan điểm toán học.
****
Đại số của Trung Hoa đã phát triển trên “lãnh thổ giả định" ấy. Trong các sách giáo khoa cổ xưa nhất, có nhiều công thức có sẵn để giải những loại bài toán nhất định. Đến tột điểm, những bài toán là những trường hợp riêng biệt. Sau này, xuất hiện những phương pháp tổng quát có khả năng giải ngày càng nhiều loại bài toán hơn, khi đó không cần đến tình huống giả định nữa. Tất cả những điều có thể sẽ không diễn ra nếu không có các phương pháp tính toán của Trung Hoa dựa vào công cụ tính toán cơ học, Bàn tính có lẽ là cõng cụ được biết đến nhiều nhất, nhưng xuất hiện muộn (khoảng Thế kỷ XV). Thực ra, các nhà toán học Trung Hoa trước hết dựa vào việc điểu khiển những que đếm (trù toán) được sắp xếp sao cho thể hiện các hệ số khác nhau của các phương trình.
Được thể hiện bằng hình thể vị trí của các que đếm, các bài toán Trung Hoa đã rút ra khỏi bối cảnh cụ thể để bước sang lĩnh vực trừu tượng. Phương pháp tính toán này thường được gọi là phương trình (phương có nghĩa là “hình vuông" hay “hình chữ nhặt và trình có nghĩa là “phân chia") gồm có việc sắp xếp các que đếm để tạo thành một hình vuông hoặc một hình chữ nhật (một ma trận). Có hai loại que được sử dụng: que đỏ và que đen, tức là que dương và que âm, tiêu biểu cho hai mặt âm dương bổ sung cho nhau theo Vũ trụ quan Trung Hoa.
Vậy ở đây là một môn đại số “công cụ", không cần đến mọi biện luận bằng lời. Đó là mặt mạnh của nó, mà cũng là măt yếu của nó vì trong khi sử dụng các que đếm, các phép tính biến mất ngay sau khi thực hiện, "Nghệ thuật các que"này giống hệt nghệ thuật của các nghệ sĩ điêu luyện biểu diễn không cần nhìn tổng phổ, và không phải ngẫu nhiên mà một số nhà toán học Trung Hoa so sánh rõ ràng toán học với âm nhạc. Tính toán và thao tác, đó là những thành phẩn cơ bản của mội dang toán học chưa hề bao giờ cảm thấy bị trói buộc bởi bất kỳ một giáo điều nào, và qua nhiều giai đoạn trong lịch sử của nó đã hòa nhập một cách hỗn tạp nhiều yếu tố từ các nền văn hóa khác
****
JEAN CLAUDE MARTZLOFF, nhà Trung Quốc học nguời Pháp, công tác nghiên cứu tại Trung tâm Quốc gia nghiên cứu khoa bọc Pháp (CNRS), đặc biệt quan tâm đến những sự trao đổi giữa khoa học Trung Hoa và truyền thống khoa học khác.
Gửi từ Xiaomi Redmi Note 7 bằng vozFApp