thắc mắc Xin các cao nhân chỉ giáo học T.a giao tiếp

khoadang123

Junior Member
Chào các bác, chuyện là em định cày tiếng anh Giao tiếp trong 2-3 tháng tới để đi pv cũng như đi làm sau này. Em có Toeic 705, đọc nghe đều khá, nhưng không giao tiếp được vì chưa từng cày. Liệu em nên tự học, học online như thế nào để hiệu quả nhất ạ? Thanks các thím!

P/s: em vừa tốt nghiệp, kinh tế hạn hẹp.
 
Mình như bạn hồi đó. Giờ mình tập trung cày IPA đến mức thành thạo nên giờ giao tiếp cũng ổn.
 
Mình cũng đang có nhu cầu luyện tiếnh anh giao tiếp trong khoảng 3 tháng tới :D
Đang thấy một số quảng cáo trên FB nhưng chưa biết chất lượng tới đâu
 
ngoài IPA còn gì nữa ko bác
Bác chia sẻ chi tiết hơn được không ?
Thím download Elsa speaking về. Trong app đó, có mục "dictionary" đó, cứ tập theo đến khi nào đạt được tầm 90-99% là được. Tới khi mà nhìn vào 1 từ mà nói theo bản năng thì bác đi giao tiếp được rồi.

Như tôi cứ nhìn vào 1 từ là nói được luôn mà không cần suy nghĩ nhiều về khẩu hình miệng (do từ đó nói nhiều rồi). Lâu dần thì tăng mức độ lên, mới tập thì 1 từ, rồi lên 2 từ, 3 từ và 1 câu. (nhớ là vẫn áp dụng Elsa speaking để xem mình phát âm chuẩn chưa).
 
Thím download Elsa speaking về. Trong app đó, có mục "dictionary" đó, cứ tập theo đến khi nào đạt được tầm 90-99% là được. Tới khi mà nhìn vào 1 từ mà nói theo bản năng thì bác đi giao tiếp được rồi.

Như tôi cứ nhìn vào 1 từ là nói được luôn mà không cần suy nghĩ nhiều về khẩu hình miệng (do từ đó nói nhiều rồi). Lâu dần thì tăng mức độ lên, mới tập thì 1 từ, rồi lên 2 từ, 3 từ và 1 câu. (nhớ là vẫn áp dụng Elsa speaking để xem mình phát âm chuẩn chưa).
tôi có dùng elsa nhưng có 1 cái là. khi nói 1 từ trên elsa có khi chỉ đạt 60-70%. nhưng nói trên google dịch thì lại ra đúng từ, vậy ko biết theo cái nào
 
tôi có dùng elsa nhưng có 1 cái là. khi nói 1 từ trên elsa có khi chỉ đạt 60-70%. nhưng nói trên google dịch thì lại ra đúng từ, vậy ko biết theo cái nào
Elsa speaking chứ. Khi bạn nói mà chỉ đạt 60-70% thì nên xem thử sai ở đâu và tập âm đó thôi.
 
Chào các bác, chuyện là em định cày tiếng anh Giao tiếp trong 2-3 tháng tới để đi pv cũng như đi làm sau này. Em có Toeic 705, đọc nghe đều khá, nhưng không giao tiếp được vì chưa từng cày. Liệu em nên tự học, học online như thế nào để hiệu quả nhất ạ? Thanks các thím!

P/s: em vừa tốt nghiệp, kinh tế hạn hẹp.
Dùng AI Gemini trên PC.
Sử dụng nội dung hội thoại giao tiếp trong giáo trình, sách bác thích.
Cung cấp nội dung đoạn hội thoại giao tiếp cho AI, yêu cầu AI đóng 1 vai trong đó, ko tự ý thêm bớt bất cứ nội dung gì, chỉ sử dụng nội dung duy nhất trong nội dung đoạn giao tiếp.
Quy ước AI bắt đầu câu đầu trước hay bác trước.
Sau đó, bác mở phần mic lên nói:D
Ví dụ cụ thể cho dễ hiểu:
2024-05-09_155253.jpg

Dùng AI Gemini trên Chrome vì có sẵn icon cái loa để nghe AI nói khi click vào, có sẵn icon mic để click vào nói:ROFLMAO:
AI luôn sẵn sàng giao tiếp, bất cứ lúc nào, ko bị giới hạn thời gian:rolleyes:
Và miễn phí.
 
Last edited:
Dùng AI Gemini trên PC.
Sử dụng nội dung hội thoại giao tiếp trong giáo trình, sách bác thích.
Cung cấp nội dung đoạn hội thoại giao tiếp cho AI, yêu cầu AI đóng 1 vai trong đó, ko tự ý thêm bớt bất cứ nội dung gì, chỉ sử dụng nội dung duy nhất trong nội dung đoạn giao tiếp.
Quy ước AI bắt đầu câu đầu trước hay bác trước.
Sau đó, bác mở phần mic lên nói:D
Ví dụ cụ thể cho dễ hiểu:
View attachment 2484105
Dùng AI Gemini trên Chrome vì có sẵn icon cái loa để nghe AI nói khi click vào, có sẵn icon mic để click vào nói:ROFLMAO:
AI luôn sẵn sàng giao tiếp, bất cứ lúc nào, ko bị giới hạn thời gian:rolleyes:
Và miễn phí.
BÁC ƠI NHƯNG THỈNH THOẢNG EM NÓI MÁY TÍNH HIỂU SAI TỪ
 
BÁC ƠI NHƯNG THỈNH THOẢNG EM NÓI MÁY TÍNH HIỂU SAI TỪ
Cái này là do có những từ nó ko nằm trong cụm từ thường gặp (cụm từ thường gặp - dữ liệu mà AI đã có sẵn nên AI có để đoán được dựa vào phân tích câu) nên cần phát âm chính xác AI mới nhận diện được.
AI nó ko phải nghe được 100% mà nó đoán người nói nói gì, nên có khi nói ko đúng lắm nó vẫn đoán ra.:D
Còn AI đoán mãi mà vẫn ra sai từ, chỉ có 1 lý do: người nói nói sai.
Ghi chú lại từ đó, lần sau thử lại vào ngày đẹp trời nào đó, tiếp tục các câu tiếp sau. (Để tránh tuột hứng học thôi.)

Liệu thực tế tai người có thực sự đủ thính để nghe 100% số từ trong giao tiếp hàng ngày với tốc độ nói thực tế?
Để bắt đầu, tôi sẽ nói rằng có một quy luật bất thành văn trong ngôn ngữ học là hễ ai nghe giỏi thì cũng gần như có thể nói tốt và ngược lại. Chuẩn như Lê Duẩn. Tôi biết điều này nghe sẽ ngớ ngẩn nhưng quan trọng là bạn định nghĩa thế nào là “nghe giỏi.” Nếu bạn tưởng “nghe giỏi” ở đây ám chỉ khả năng nghe xong hiểu ngay mà không cần hỏi lại “repeat, please” thì hẳn bạn đã hiểu sai nhận định này rồi. Sai thế nào?
Công bằng mà nói, bạn nghe hiểu tốt thì bạn sẽ có thể đọc hiểu giỏi. Nhưng nếu bạn muốn nói giỏi đúng nghĩa thì bạn buộc phải có thể nghe và lặp lại được những gì bạn vừa nghe. Tôi khá chắc về điều này.
Nhớ hồi tôi còn đi học, vào tiết Listening, tôi không biết bạn sao chứ tôi thì cứ thầm ngưỡng mộ giáo viên tiếng Anh của mình, cô là người có thể nghe một phát ăn ngay, kiểu bấm cát-sét tạch phát là có thể lặp lại luôn được cả câu dài thoòng không sót chữ nào mà không cần phải nghe lại. Quá kinh khủng khiếp, phải không?
Câu hỏi là liệu thực tế tai người có thực sự đủ thính để nghe 100% số từ trong giao tiếp hàng ngày với tốc độ nói thực tế của người bản xứ không. Tôi nói luôn nhé, không.
Vậy bí mật của những người như cô giáo tôi hồi đó là gì? Là đoán. Phải, họ đoán cực xịn, đương nhiên không phải kiểu bạn hay đoán tỉ số Euro, họ đoán một cách chuyên nghiệp. Tôi nghĩ từ chuyên nghiệp là từ phù hợp ở đây. Và để đoán một cách chuyên nghiệp, lúc nghe, họ đã dùng một kỹ thuật mà hẳn bạn chưa bao giờ nghe đến, nghe theo cụm.
PHRASE-4.jpg

“Tui nghe thì hiểu hết đấy nhưng hài cái là nói lại không được!” Bạn có nghe nhiều nhiều những câu “hồ than thở” như này chưa? Tôi dạy Speaking nên nghe riết đến phát ngấy. Bản chất là do người ta có đeo vài cái máy trợ thính trước khi vào lớp hay do bạn bị lãng tai sớm? Không phải đâu, tai bạn chả có vấn đề gì cả, cái đó thì bạn có thể tin tôi. Tất cả chỉ là do bạn chưa biết nghe theo cụm thôi.
Vậy nghe theo cụm là cái quái gì mà nãy giờ tôi cứ nói quài???
Là bạn nghe một vài từ nhưng bạn loay hoay đoán ra được cả một cụm. Khi bạn quen rồi, thậm chí bạn có thể nghe một vài từ khóa để đoán cả một câu là chuyện hết sức bình thường.
Để chi? Nói vầy đi, khi bạn có thể nghe theo cụm, bạn sẽ có thể nghe và lặp lại được không phải 50%, không phải 75% mà là 100% số từ bạn vừa nghe. Đó là tiền đề để bạn có thể moi cũng câu đó ra dùng trong lúc nói lần tiếp theo bạn đi nhậu với một Peter hay một James nào đó ở ngoài đường.
Nhưng vì sao chúng ta thường nghe theo cụm dở ẹt? Vì nó thường không nằm trong chương trình dạy nghe. Nói cách khác, ta có được học bao giờ đâu mà giỏi. Cơ bản, chúng ta được tiếp xúc với hai kiểu nghe ở chương trình phổ thông: Điền vào chỗ trống và nghe hiểu nắm ý để trả lời đúng sai cho những câu hỏi bên dưới. Đúng là kỹ năng phía sau có giúp ta rất nhiều trong cuộc sống thực sau này nhưng, thành thật mà nói, vẫn còn quá xa vời để giúp ta nghe và nói được theo cụm. Không nghe được theo cụm cũng là lý do khiến bạn nói bị vấp liên tục hoặc thậm chí nhiều lúc là “tắt đài” không biết nói bằng lời một ý thế nào luôn. Có phải không?
Nói rộng ra, việc thực hành nói và nghe theo cụm vốn là bản chất của cả thế giới ngôn ngữ nói chung chứ không riêng gì tiếng Anh. Nó áp dụng cho cả ngôn ngữ lập trình và ngôn ngữ ký hiệu hay đại loại. Tiếng Việt cũng thế. Bình thường chúng ta nói rất, rất, rất nhanh (Do cơ chế tiết kiệm năng lượng tự động) và đồng nghĩa, hầu như mọi lúc, người kia thường chỉ bắt được những từ khóa quan trọng. Nhưng thế là đủ rồi. Đó gọi là nghe hiểu.
Nói đi thì cũng phải nói lại, một người bản xứ cơ bản khác chúng ta ở chỗ họ cũng nghe được vài từ khóa nhưng họ hoàn toàn có thể đoán ra phần còn lại bị thiếu. Nói tóm lại, bí mật để trở thành một người đoán giỏi có thể được tìm thấy ở ba điều sau:
1.Ngữ pháp tốt.
2.Biết nhiều thành ngữ / từ lóng và nhất là những cụm thông dụng người ta hay dùng trong văn nói.
3.Không có cái thứ ba.
8B.png

Ô màu xanh là những gì tai họ thực sự nghe được, trông chả hơn gì bạn, phải không? Nhưng những gì họ nói ra lại trong ô màu vàng thì có vẻ rất khác với đáp án của bạn, dù bạn đã vô cùng tập trung. Đừng quên cốt lõi nằm ở việc đoán. Vấn đề là khi được hỏi, những người nghe tốt này sẽ luôn tưởng họ thật sự nghe được toàn bộ, từng chữ một, nên khi cho bạn lời khuyên, họ sẽ khuyến khích bạn phải khổ sở cố nghe cho ra từng chữ, theo đúng nghĩa đen, cứ như là đáng lẽ bạn đã có thể làm tốt hơn nhiều. Và đó là nơi thảm họa bắt đầu.
Rõ ràng, một nền tảng ngữ pháp tốt cùng với việc biết nhiều cụm từ đã giúp cho một người bản xứ đoán chắc phải đến gần 50% số lượng thông tin bị mất trong một thông điệp âm thanh. Tin hay không tùy, nhiều khi bạn mới nói mới nửa câu não họ đã tự động đoán nội dung của nửa còn lại.
Đương nhiên, não họ không đưa cho họ một đáp án cụ thể mà thay vào đó, những gì xuất hiện trong đầu họ là cái gì đó giống như cả một danh sách một mớ những đáp án nhiều khả năng nhất sẽ xảy ra. Tất cả diễn ra trong vùng vô thức.
 
Last edited:
Cái này là do có những từ nó ko nằm trong cụm từ thường gặp (cụm từ thường gặp - dữ liệu mà AI đã có sẵn nên AI có để đoán được dựa vào phân tích câu) nên cần phát âm chính xác AI mới nhận diện được.
AI nó ko phải nghe được 100% mà nó đoán người nói nói gì, nên có khi nói ko đúng lắm nó vẫn đoán ra.:D

Liệu thực tế tai người có thực sự đủ thính để nghe 100% số từ trong giao tiếp hàng ngày với tốc độ nói thực tế?
Để bắt đầu, tôi sẽ nói rằng có một quy luật bất thành văn trong ngôn ngữ học là hễ ai nghe giỏi thì cũng gần như có thể nói tốt và ngược lại. Chuẩn như Lê Duẩn. Tôi biết điều này nghe sẽ ngớ ngẩn nhưng quan trọng là bạn định nghĩa thế nào là “nghe giỏi.” Nếu bạn tưởng “nghe giỏi” ở đây ám chỉ khả năng nghe xong hiểu ngay mà không cần hỏi lại “repeat, please” thì hẳn bạn đã hiểu sai nhận định này rồi. Sai thế nào?
Công bằng mà nói, bạn nghe hiểu tốt thì bạn sẽ có thể đọc hiểu giỏi. Nhưng nếu bạn muốn nói giỏi đúng nghĩa thì bạn buộc phải có thể nghe và lặp lại được những gì bạn vừa nghe. Tôi khá chắc về điều này.
Nhớ hồi tôi còn đi học, vào tiết Listening, tôi không biết bạn sao chứ tôi thì cứ thầm ngưỡng mộ giáo viên tiếng Anh của mình, cô là người có thể nghe một phát ăn ngay, kiểu bấm cát-sét tạch phát là có thể lặp lại luôn được cả câu dài thoòng không sót chữ nào mà không cần phải nghe lại. Quá kinh khủng khiếp, phải không?
Câu hỏi là liệu thực tế tai người có thực sự đủ thính để nghe 100% số từ trong giao tiếp hàng ngày với tốc độ nói thực tế của người bản xứ không. Tôi nói luôn nhé, không.
Vậy bí mật của những người như cô giáo tôi hồi đó là gì? Là đoán. Phải, họ đoán cực xịn, đương nhiên không phải kiểu bạn hay đoán tỉ số Euro, họ đoán một cách chuyên nghiệp. Tôi nghĩ từ chuyên nghiệp là từ phù hợp ở đây. Và để đoán một cách chuyên nghiệp, lúc nghe, họ đã dùng một kỹ thuật mà hẳn bạn chưa bao giờ nghe đến, nghe theo cụm.
PHRASE-4.jpg

“Tui nghe thì hiểu hết đấy nhưng hài cái là nói lại không được!” Bạn có nghe nhiều nhiều những câu “hồ than thở” như này chưa? Tôi dạy Speaking nên nghe riết đến phát ngấy. Bản chất là do người ta có đeo vài cái máy trợ thính trước khi vào lớp hay do bạn bị lãng tai sớm? Không phải đâu, tai bạn chả có vấn đề gì cả, cái đó thì bạn có thể tin tôi. Tất cả chỉ là do bạn chưa biết nghe theo cụm thôi.
Vậy nghe theo cụm là cái quái gì mà nãy giờ tôi cứ nói quài???
Là bạn nghe một vài từ nhưng bạn loay hoay đoán ra được cả một cụm. Khi bạn quen rồi, thậm chí bạn có thể nghe một vài từ khóa để đoán cả một câu là chuyện hết sức bình thường.
Để chi? Nói vầy đi, khi bạn có thể nghe theo cụm, bạn sẽ có thể nghe và lặp lại được không phải 50%, không phải 75% mà là 100% số từ bạn vừa nghe. Đó là tiền đề để bạn có thể moi cũng câu đó ra dùng trong lúc nói lần tiếp theo bạn đi nhậu với một Peter hay một James nào đó ở ngoài đường.
Nhưng vì sao chúng ta thường nghe theo cụm dở ẹt? Vì nó thường không nằm trong chương trình dạy nghe. Nói cách khác, ta có được học bao giờ đâu mà giỏi. Cơ bản, chúng ta được tiếp xúc với hai kiểu nghe ở chương trình phổ thông: Điền vào chỗ trống và nghe hiểu nắm ý để trả lời đúng sai cho những câu hỏi bên dưới. Đúng là kỹ năng phía sau có giúp ta rất nhiều trong cuộc sống thực sau này nhưng, thành thật mà nói, vẫn còn quá xa vời để giúp ta nghe và nói được theo cụm. Không nghe được theo cụm cũng là lý do khiến bạn nói bị vấp liên tục hoặc thậm chí nhiều lúc là “tắt đài” không biết nói bằng lời một ý thế nào luôn. Có phải không?
Nói rộng ra, việc thực hành nói và nghe theo cụm vốn là bản chất của cả thế giới ngôn ngữ nói chung chứ không riêng gì tiếng Anh. Nó áp dụng cho cả ngôn ngữ lập trình và ngôn ngữ ký hiệu hay đại loại. Tiếng Việt cũng thế. Bình thường chúng ta nói rất, rất, rất nhanh (Do cơ chế tiết kiệm năng lượng tự động) và đồng nghĩa, hầu như mọi lúc, người kia thường chỉ bắt được những từ khóa quan trọng. Nhưng thế là đủ rồi. Đó gọi là nghe hiểu.
Nói đi thì cũng phải nói lại, một người bản xứ cơ bản khác chúng ta ở chỗ họ cũng nghe được vài từ khóa nhưng họ hoàn toàn có thể đoán ra phần còn lại bị thiếu. Nói tóm lại, bí mật để trở thành một người đoán giỏi có thể được tìm thấy ở ba điều sau:
1.Ngữ pháp tốt.
2.Biết nhiều thành ngữ / từ lóng và nhất là những cụm thông dụng người ta hay dùng trong văn nói.
3.Không có cái thứ ba.
8B.png

Ô màu xanh là những gì tai họ thực sự nghe được, trông chả hơn gì bạn, phải không? Nhưng những gì họ nói ra lại trong ô màu vàng thì có vẻ rất khác với đáp án của bạn, dù bạn đã vô cùng tập trung. Đừng quên cốt lõi nằm ở việc đoán. Vấn đề là khi được hỏi, những người nghe tốt này sẽ luôn tưởng họ thật sự nghe được toàn bộ, từng chữ một, nên khi cho bạn lời khuyên, họ sẽ khuyến khích bạn phải khổ sở cố nghe cho ra từng chữ, theo đúng nghĩa đen, cứ như là đáng lẽ bạn đã có thể làm tốt hơn nhiều. Và đó là nơi thảm họa bắt đầu.
Rõ ràng, một nền tảng ngữ pháp tốt cùng với việc biết nhiều cụm từ đã giúp cho một người bản xứ đoán chắc phải đến gần 50% số lượng thông tin bị mất trong một thông điệp âm thanh. Tin hay không tùy, nhiều khi bạn mới nói mới nửa câu não họ đã tự động đoán nội dung của nửa còn lại.
Đương nhiên, não họ không đưa cho họ một đáp án cụ thể mà thay vào đó, những gì xuất hiện trong đầu họ là cái gì đó giống như cả một danh sách một mớ những đáp án nhiều khả năng nhất sẽ xảy ra. Tất cả diễn ra trong vùng vô thức.
em yêu bác như yêu TAYLOR:love: cho em xin vía thi IELTS
 
em yêu bác như yêu TAYLOR:love: cho em xin vía thi IELTS
Gửi bác câu chuyện vui:
Trong một lớp học về tiếng Anh học thuật (academic English) cho sinh viên quốc tế đang theo học ở một trường đại học nằm giữa đại dương, thầy giáo giới thiệu một số kỹ thuật (strategies) về ghi chép (notetaking) để các bạn sinh viên làm quen và sử dụng trong quá trình nghe giảng các môn chuyên ngành. Sau khi trình bày xong, sinh viên thảo luận với nhau về những điểm mạnh, điểm yếu của mỗi kỹ thuật. Sau đó, một em nữ sinh từ xứ sở kim chi giơ tay phát biểu:
Kim Chi: Thưa thầy, em thấy những kỹ thuật ghi chép thầy giới thiệu thì có thể áp dụng trong việc nghe giảng các môn chuyên ngành, nhưng khi phải ghi chép làm bài thi TOEFL, em nghĩ hơi khó áp dụng, thầy có kỹ thuật nào hữu ích không?
Thầy giáo lắng nghe chăm chú, nhìn Kim Chi với vẻ vừa tò mò, vừa bối rối. Cả lớp yên lặng. Thầy giáo quay sang cầm cây bút (marker) và chậm giãi nói:
Tôi không nghĩ rằng tôi có thể trả lời câu hỏi của em, nhưng có một ý tôi muốn chia sẻ với em và các bạn trong lớp. Vừa nói, thầy vừa viết chữ TOEFL lên bảng: Mục đích của bài thi TOEFL hay IELTS là nhằm khảo sát xem người học có đủ năng lực tiếng Anh/sẵn sàng để có thể theo học các chương trình đại học hoặc sau đại học ở một quốc gia (nói tiếng Anh) hay không? Nếu như em và các bạn có thể học tập tại đây thì tại sao còn băn khoăn về điểm số ấy?

Rất nhiều người, gồm cả những người trong & ngoài cuộc thường làm ngơ khi kết quả bài thi TOEFL/IELTS bị diễn giải sai hoặc bị sử dụng nhầm chỗ, một phần vì sự thiếu hiểu biết, một phần vì lợi ích đi kèm với nó quá lớn nên khó lòng cưỡng lại được. Nhưng điều đáng tiếc là nó được sử dụng để đưa ra những quyết định ảnh hưởng tới cuộc sống của nhiều người, những người chỉ sử dụng tiếng Anh vào những công việc cụ thể (dạy học, du lịch, làm việc…) mà không/chưa có ý định sử dụng tiếng Anh học thuật cho mục đích hàn lâm. Đành rằng là có học có hơn (học thuật), độ tin cậy của các bài thi ấy khá cao, và chắc hẳn đánh giá được năng lực tiếng Anh của người học, nhưng nó phục vụ tốt nhất cho mục đích đã đề ra: hoạt động học tập, nghiên cứu bằng tiếng Anh ở trình độ đại học & sau đại học. Nếu dùng những bài thi ấy làm chuẩn hoặc cóp nhặt một phần từ những bài thi ấy thì dễ dàng chúng ta bị sa đà vào sự bất công. Nó giống như câu nói mà thường được cho rằng của Albert Einstein:
“Nếu bạn đánh giá một con cá bằng khả năng leo cây, con cá đó sẽ dành cả cuộc đời còn lại để tin rằng nó là một đứa ngu đần”.

Ở góc độ kỹ thuật, bài thi TOEFL/IELTS là một loại hình chuẩn hoá, có nghĩa là điểm số của người học B chính là vị trí xếp hạng của người đó so với những người khác A-Z chứ không phải số câu trả lời đúng người học có được từ bài thi. Thêm vào đó, kết quả bài thi có được phải trải qua một quá trình phân tích phức tạp nhằm loại bỏ những yếu tố ăn may hoặc yếu tố bất thường có được từ quá trình gian lận hoặc thủ thuật làm bài. Chính vì thế việc luyện thi quá mức hoặc tập trung quá nhiều vào các mẹo mực sẽ chẳng giúp người học nâng cao năng lực ngôn ngữ. Khi người học có năng lực ngôn ngữ thì đều có thể thể hiện được cho dù đó là công cụ đo nào chăng nữa. Việc luyện thi nhằm mục đích làm quen hình thức bài thi hoặc được sử dụng như một kỹ thuật dạy học giúp người học nâng cao năng lực ngôn ngữ vẫn có giá trị, nhưng nếu chỉ tìm mọi cách để nâng cao điểm số thì là một việc cần xem xét lại.

Chúng ta học tốt hơn khi:
1. Nguyên tắc mạch lạc: Chúng ta học tốt hơn khi những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh tạp (không liên quan) bị loại bỏ thay vì được thêm vào. Coherence Principle/People learn better when extraneous words, pictures and sounds are excluded rather than included.
Liên hệ: nguyên tắc này cũng giống với một nguyên tắc trong thiết kế/tư duy thiết kế “bớt là thêm/Less is more“. Khi trình bày bằng PowerPoint mà giáo viên lặp lại những gì đã “chiếu” ở trên màn hình thì như vậy là thừa; chèn những hiệu ứng vui nhộn không phục vụ mục đích dạy-học cũng là tạp nham; sử dụng đa màu sắc mà chẳng để nhấn mạnh nội dung gì cũng là cách làm thiếu hiểu biết.

2. Nguyên tắc tín hiệu: Chúng ta học tốt hơn khi việc tổ chức những thông tin quan trọng được nhấn mạnh nhờ các dấu hiệu. Signaling Principle/People learn better when cues that highlight the organization of the essential material are added.
Liên hệ: khả năng chú ý và ghi nhớ của con người có giới hạn vậy niên việc tổ chức thông tin một cách có hệ thống, logic và sử dụng các phương pháp khác nhau giúp người học nhận ra là vô cùng cần thiết. Khi thiết kế trang chiếu, cỡ chữ, phông chữ, màu sắc nhất quán cho các tiêu đề cũng sẽ giúp người học tiếp nhận thông tin tốt hơn. VD trong bài trình bày sử dụng hai màu chủ đạo, xanh thẫm và xanh non, xanh thẫm dành có các ý chính, xanh non dành có các ví dụ, ý bổ sung…như vậy người tiếp nhận sẽ dễ dàng phân biệt hơn qua việc tổ chức thông tin bằng màu sắc.

3. Nguyên tắc dư thừa: Chúng ta học tốt hơn từ đồ họa/hình ảnh kết hợp với diễn giải bằng lời nói thay vì đồ họa, diễn giải, lại thêm chữ trên màn hình. Redundancy Principle/People learn better from graphics and narration than from graphics, narration and on-screen text.
Liên hệ: một thói quen rất phổ biến của nhiều giáo viên khi sử dụng PowerPoint là “chiếu” hết những gì định nói lên màn hình, thậm chí đọc lại những gì đã chiếu, thật nhàn hạ cho giáo viên :(. Các nghiên cứu của Mayer cho thấy chúng ta xử lý thông tin chủ yếu qua hai kênh: kênh hình ảnh (pictorial) và kênh ngôn ngữ (verbal), vậy nên khi đã nói rồi mà còn bắt người tiếp nhận đọc thì xảy ra việc quá tải (cognitive overload) vì cả hai nguồn này đều đi vào khu vực xử lý ngôn ngữ (verbal). Tương tự như vậy, việc giảng bài trực tuyến mà đã có màn hình, lại chèn thêm video của người nói ở một góc màn hình là rườm rà vì người tiếp nhận phải phân bổ khả năng chú ý cho các chi tiết trên màn hình, video của người nói, giọng nói, và đôi khi cả chữ viết nữa. Như vậy người tiếp nhận vừa bị quá tải kênh hình ảnh (màn hình + video người nói) và kênh ngôn ngữ (giọng nói + chữ viết).

4. Nguyên tắc tiếp giáp (không gian): Chúng ta học tốt hơn khi chữ và hình ảnh tương ứng được trình bày ở gần nhau thay vì cách xa nhau ở trên một trang hoặc màn hình. Spatial Contiguity Principle/People learn better when corresponding words and pictures are presented near rather than far from each other on the page or screen.
Liên hệ: giống như nguyên tắc tương cận (proximity) trong thiết kế đồ họa và tư duy thiết kế, những thứ thuộc về nhau, liên quan tới nhau thì nên để gần với nhau để giúp người tiếp cận dễ dàng nhận ra mối liên hệ của chúng. Đây cũng là cách tư duy về mặt không gian, nếu chúng ta chú ý một chút sẽ thấy những dòng chữ này thuộc về mục liên hệ và nó cũng có một khoảng cách tương đối với mục nguyên tắc. Trong khi thiết kế trang chiếu cũng vậy, những hình ảnh mà gắn với khái niệm/từ khóa nào thì cũng cần được để gần nhau, giúp người tiếp nhận nhận ra mối liên hệ dễ dàng hơn thay vì phải suy luận và tự kết luận.

5. Nguyên tắc tiếp giáp (thời gian): Chúng ta học tốt hơn khi chữ và hình ảnh được trình bày đồng thời thay vì liên tiếp. Temporal Contiguity Principle/People learn better when corresponding words and pictures are presented simultaneously rather than successively.
Liên hệ: Điều rất dễ thấy là khi giáo viên trình bài một khái niệm, dùng hiệu ứng cho hình chạy ra trước, rồi từ khóa xuất hiện sau thay vì nhóm chúng vào với nhau, cho xuất hiện đồng thời.

6. Nguyên tắc phân khúc: Chúng ta học tốt hơn khi một bài học đa phương tiện được trình bày thành các phân đoạn, phù hợp với nhịp độ của người dùng thay vì trình bày chúng thành một bài liên tục. Segmenting Principle/ People learn better from a multimedia lesson is presented in user-paced segments rather than as a continuous unit.

7. Nguyên tắc tiền tập: Chúng ta học tốt hơn từ một bài học đa phương tiện khi chúng ta biết tên gọi và các đặc điểm của những khái niệm chính. Pre-training Principle/People learn better from a multimedia lesson when they know the names and characteristics of the main concepts.
Liên hệ: Giống như trong một bài dạy về kỹ năng đọc (ngoại ngữ), giáo viên có thể cung cấp những từ khóa, từ mới và những cấu trúc mà người học chưa biết để quá trình đọc trở lên hiệu quả hơn.

8. Nguyên tắc thể thức: Chúng ta học tốt hơn từ hình ảnh và tường thuật (giọng nói) thay vì hoạt hình và văn bản trên màn hình. Modality Principle/People learn better from graphics and narrations than from animation and on-screen text.
Liên hệ: Việc nghe ai đó nói, kết hợp với việc minh họa bằng cử chỉ điệu bộ, hình ảnh sẽ hiệu quả hơn hoạt họa và văn bản trên màn hình. Hai thể thức sau không gần gũi, thân thiện với con người.

9. Nguyên tắc đa phương tiện: Chúng ta học tốt hơn từ chữ và hình ảnh thay vì chỉ học từ mỗi kênh chữ thông thường. Multimedia Principle/ People learn better from words and pictures than from words alone.

10. Nguyên tắc cá nhân hóa: Chúng ta học tốt hơn từ các bài học đa phương tiện được khi kênh ngôn ngữ được trình bày qua trong cách hội thoại thay vì phong cách trang trọng. Personalization Principle/ People learn better from multimedia lessons when words are in conversational style rather than formal style.
Liên hệ: Khi xuất hiện phương thức đào tạo từ xa, các bài giảng được ghi hình đóng gói, rất nhiều khóa học tôi xem thì thấy giáo viên ngồi ở trong phòng thu, rất trang trọng và nghiêm túc đọc hoặc giảng bài. Vô hình chung, các làm này tạo ra khoảng cách đối với người học, không tạo ra sự kết nối giữa người với người. Chúng ta kết nối dễ dàng hơn qua những câu chuyện và chia sẻ thân tình thay vì việc giữ khoảng cách như một cách thể hiện quyền lực.

11. Nguyên tắc giọng nói: Chúng ta học tốt hơn khi mà lời thuật trong các bài học đa phương tiện là giọng nói của con người thay vì sử dụng giọng nhân tạo của máy tính. Voice Principle/People learn better when the narration in multimedia lessons is spoken in a friendly human voice rather than a machine voice.

12. Nguyên tắc hình ảnh: Chúng ta học tốt khi mà hình ảnh của người trình bày không nhất thiếtphải xuất hiện trên màn hình. Image Principle/People do not necessarily learn better from a multimedia lesson when the speaker’s image is added to the screen.

Người nói sẽ là bậc thầy giao tiếp khi biết vận dụng thành thục một loại ngôn ngữ phổ biến khác:

Đọc - Hiểu​

Theo định nghĩa của từ điển Cambridge thì Comprehension là:
A test to find out how well students understand written or spoken English.
Dịch ra comprehension là một cách để “test” xem bạn hiểu một đoạn hoặc một câu tiếng Anh đến cỡ nào.
Tôi lấy ví dụ một câu trong khúc mở đầu của cuốn The Selfish Gene:
Let me repeat and expand the rationale for the word 'selfish' in the title.
Cả câu này gần như không có từ nào chua ngoài chữ “rationale” (danh từ của rational, nghĩa là mức độ hợp lý) là có vẻ lạ lạ. Về nguyên tắc, việc không biết 1/14 chữ (7% ) số từ trong một câu không phải là chuyện gì lớn nhưng khổ cái là chữ duy nhất không biết ở đây lại là một từ khóa (keyword) dẫn đến khả năng cả câu chả hiểu gì là rất cao.
Một ví dụ khác, tôi chọn đại một câu ở đoạn giữa của cuốn Fooled by Randomness của Nassim Taleb mà tôi đang thích thú ngấu nghiến, nó như này:
What he meant by that statement was that the "noise" was mean reverting, and would likely be offset by "noise" in the opposite direction.
Đọc xong lú luôn, cảm giác kiểu tôi là ai và đây là đâu như kiểu vừa đọc triết Hegel. Và hiển nhiên câu này cũng được đánh giá là một câu khá chua để hiểu, để “comprehend” được. Vì sao?
Vì một trong những từ khóa của câu này vốn là một từ gốc pháp “reverting” lại đang là một từ ở cấp độ C nghĩa là một từ không nhiều người có thể hiểu nghĩa, chỉ có đoán. Chưa kể, câu này chứa hai cụm từ hay sử dụng và cần hiểu theo cụm.
a.What he meant by… was… (Ý ảnh khi nói… là…)
b.In the opposite direction (Theo hướng ngược lại)
Chính do việc đọc hiểu_đọc để hiểu được ý_vốn dĩ đã là một việc chả dễ ăn gì nên 12 năm đi học cộng với vài năm đại học, một người sẽ chủ yếu được dạy để đọc hiểu là chính và kỹ năng đọc hiểu là một kỹ năng không thể thiếu trong tất cả các kỳ thi ngôn ngữ quốc tế. Luyện mãi cũng phải giỏi lên, phải công nhận là người Việt chúng ta thế hệ 8X, 9X hay gần nhất là gen Z đọc hiểu rất siêu.
Trong quá trình đi làm ngày nay, việc đọc hiểu tài liệu chuyên ngành (thường viết bằng tiếng Anh) thì quan trọng khỏi phải bàn. Thế nhưng trong khoảng 20 năm đổ lại, nhất là sau sự cố máy tính Y2K năm 2000 cùng sự đổ bộ của internet và wifi, thế giới đã bị ủi phẳng ra nhiều, đồng nghĩa với việc một anh châu Á giờ đây có thể làm việc ở mọi nơi nếu anh ta có thể hợp tác tốt, mà hợp tác tốt nghĩa là không chỉ có cắm đầu cày tài liệu và đọc hiểu email, mà khi cần là phải mở miệng nói chuyện được, đúng ra là phải tranh luận được, nói đùa, gọi điện và đi nhậu được.
Nhưng nếu chúng ta để ý ta sẽ thấy rằng, việc đọc hiểu đã chua còn việc nói được thậm chí còn khó hơn việc đọc hiểu nhiều lần.
Khi đọc hiểu, nếu ta là một người biết khá nhiều từ vựng đơn lẻ, biết một vài thành ngữ thông dụng, biết quan sát và cảm nhận ngữ điệu người nói, thì cho dù thậm chí là không giỏi về thì hay ngữ pháp lắm ta vẫn hoàn toàn có thể “đoán” ý người đối diện, tức là nghe ổn và đọc hiểu tốt. Điều này giải thích cho rất nhiều cảnh không biết nhiều tiếng Anh hay chỉ dùng tiếng Anh bồi nhưng vẫn sống sót và hòa nhập tốt khi đi nước ngoài.
Hiện nay, một câu nói trung bình dài từ 15 đến 20 từ, nếu ta xem từ khóa lần lượt là động từ, danh từ và tính từ trong câu thì chỉ có đâu đó khoảng 15%-20% số từ trong một câu mà ta gọi là nhất quyết phải biết để có thể đoán nghĩa cả câu. Thật sự không nhiều.
avarage-sentence.png

Đấy là câu chuyện của “đọc hiểu”, câu chuyện nói được lại là hoàn toàn khác. Thực ra, tương tự như đọc hiểu, “nói hiểu” về bản chất cũng như “đọc hiểu”, không cần nhiều từ, cũng chỉ cần biết tầm 20% số từ khóa là đủ để truyền đạt thông tin ở mức gọi là cơ bản, là hiểu được. Nhưng đương nhiên đòi hỏi người nói phải là bậc thầy giao tiếp khi biết vận dụng thành thục một loại ngôn ngữ phổ biến khác chính là ngôn ngữ cơ thể để múa may quay cuồng kèm theo ngữ điệu được canh chỉnh phù hợp. Nói cách khác, anh không giỏi tiếng Anh thì anh phải là diễn viên múa.
body-language.png

Đấy là chuyện nói sao cho đủ hiểu, còn để nói cho hay, cho tròn và đủ ý thì rất có thể một người phải biết trên 90% số từ cần nói trong câu.
Ví dụ, để truyền đạt ý tưởng sau: Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân lên đất Mỹ.
why-speak-2.png

Đáp án chuẩn của bộ sẽ là: This is the first time I’ve set foot on American soil.
Để làm được điều đó, người nói chẳng những phải biết mọi từ khóa mà còn phải biết và rành cụm hay dùng để nói cho đúng và trơn tru thay vì ghép từng chữ một.
Trong câu trên, cụm từ cần biết và trơn tru là “This is the first time…” (bạn nào muốn giỏi cả tense thì học luôn cụm “This is the first time I’ve…”) và cụm “set foot on American soil”.
Người đã rành rọt hai cụm này sẽ xử lý câu này bằng hai nhát kiếm đơn giản như trên, xẹt xẹt cái là xong, gọn gàng, đẹp đẽ, trơn tru và ngắt nhịp đúng điệu.
Tóm lại, điểm khác biệt cơ bản và lớn nhất giữa quá trình luyện đọc hiểu (Reading) và luyện nói (Speaking) là khả năng thực luyện tập mở miệng nói theo cụm vô số lần để tạo thói quen vô thức, chứ không chỉ là việc thuần biết nghĩa nhiều từ vựng và cụm từ như một cuốn từ điển di động.
Thực ra, chả có gì bí mật ở đây, bạn muốn luyện nghe cho trơn tru hay đọc cho trơn tru cũng phải luyện y hệt như để nói trơn tru, là luyện nghe theo cụm và luyện đọc theo cụm chứ không phải nghe hay đọc theo kiểu ghép từng chữ kiểu word by word. Chỉ khác là bạn chỉ mới nghe hay đọc okay nhưng không trơn tru thì chả ai biết, còn nói không trơn tru là sẽ lòi ra ngay giữa bàn họp lãnh đạo mỗi sáng thứ hai, đúng chứ? Nhưng chuyện đó ta sẽ dành để lúc khác sẽ bàn.
Link đã tèo.

Tăng cường input trong học ngoại ngữ:

1. Ngữ nhập/Input là gì?​

Khái niệm ngữ liệu đầu vào (input) được Krashen đưa ra và phổ biến vào những năm 1980 nhằm nhấn mạnh tơi việc người học ngoại ngữ, cũng giống như một người tiếp thụ tiếng mẹ đẻ của mình, cần rất nhiều ngữ liệu đầu vào thông qua việc nghe, đọc để sau này có thể nói, viết. Chính vì thế hoạt động học ngoại ngữ không thể diễn ra, hoặc không thành công là do người học, đặc biệt trong môi trường ngoại ngữ, chưa có đủ nguồn ngôn ngữ để tiếp nhận, qua đó kích hoạt được những thông số bên trong não bộ (như cách nói của Chomsky (parameter settings)). Từ giả thuyết này, Krashen cho rằng chỉ cần người học được tiếp xúc với nguồn ngữ liệu phù hợp sau một thời gian nhất định người học sẽ có thể “đắc thụ” được ngôn ngữ đích. Ông cũng phân biệt hai quá trình trong việc phát triển ngoại ngữ: học vs. thụ đắc. Lập luận của Krashen nhấn mạnh rằng, thụ đắc ngôn ngữ là một quá trình mang tính tiềm thức (subconscious), nó diễn ra một cách tự nhiên mà không cần có sự can thiệp của ý thức. Ngược lại, học ngôn ngữ diễn ra một cách chính thức, có sự tham gia của ý thức, đặc biệt là người học ngoại ngữ, quá trình này diễn ra một cách có ý thức, được các giáo viên dạy ở trường lớp thay vì người học tiếp nhận trong môi trường tự nhiên như tiếng mẹ đẻ.

Giả thuyết của Krashen rất hợp lý và có tính thuyết phục cao, phù hợp với hiểu biết chung của nhiều người (common sense) nên được người học và người dạy ngoại ngữ đón nhận nhiệt tình. Bản thân Krashen cũng nhận được rất nhiều cơ hội từ những lý luận mà ông đưa ra (gồm 5 giả thuyết khác) như việc diễn thuyết, tổ chức tập huấn cho giáo viên, xin tài trợ thành công cho các dự án nghiên cứu, xuất bản tạp chí và sách…Thêm vào đó, ý tưởng này cũng tạo nhiều cảm hứng cho những người làm công tác đào tạo ngoại ngữ, thậm chí là doanh nhân ngoại ngữ. Tuy nhiên, giả thuyết của Krashen không phải được tất cả mọi người đón nhận, đặc biệt là những nhà hàn lâm và các nhà nghiên cứu. Họ đặt ra những câu hỏi liên quan tới giả thuyết này và chỉ ra rằng ý tưởng input nghe hấp dẫn nhưng không thể kiểm chứng được về mặt khoa học. Đồng ý rằng ngữ liệu đầu vào rất có ý nghĩa và giữ vai trò quan trọng, nhưng không phải tất cả input đều có tác động như nhau. Đối với một người tiếp thụ tiếng mẹ đẻ ngay từ khi mới lọt lòng, nguồn ngữ liệu mà đứa trẻ đó tiếp nhận là vô cùng phong phú và đa dạng, tuy nhiên, điều này khó có thể được hiện thực hóa cho người học ngoại ngữ. Sau đó Krashen cũng điều chỉnh giả thuyết của mình cho hợp lý hơn. Ông cho rằng nguồn ngữ liệu đó phải cao hơn trình độ hiện tại của người học một chút, nhưng vẫn giúp người học hiểu được với thuật ngữ “i+1” (comprehensible input) thì quá trình thụ đắc ngôn ngữ sẽ diễn ra thành công. Một lần nữa, thật khó có thể định nghĩa được thế nào là i+1, đặc điểm của nó là gì và làm sao có được i+1 cho nhiều người học khác nhau.

Những năm tiếp theo cũng có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng nếu chỉ nhờ vào input thì sẽ không đủ, người học có thể đạt được mức độ nhất định trong quá trình học ngoại ngữ nhưng khó có thể phát triển ở các mức độ cao hơn. Swain (1985) chỉ ra điều này khi bà nghiên cứu những người học tiếng Anh trong các chương trình ‘tắm’ ngôn ngữ (immersion) tại Canada. Người học đạt được mức độ thuần thục khi giao tiếp, khi nghe nói nhưng về mặt ngữ pháp vẫn có rất nhiều lỗi sai mà mặc dù họ có thể sử dụng tiếng Anh như một ngoại ngữ thành công cho những hoạt động cơ bản, tiếng Anh của họ nghe vẫn có vẻ như tiếng Anh “bồi” (pidginized). Từ đó bà đưa ra một giả thuyết mới: giả thuyết về ngữ liệu đầu ra (output hypothesis), bổ sung cho giả thuyết của Krashen. Vấn đề không chỉ đơn giản là đầu vào-đầu ra (input-output) như hai giả thuyết trên mà nó còn phức tạp hơn nhiều khi sau này các lý thuyết gia bổ sung thêm những lập luận mới từ những nghiên cứu của mình. Mike Long đưa ra giả thuyết về tương tác (interaction hypothesis) qua luận án tiến sĩ của mình, cho rằng chính nhờ quá trình tương tác và thương lượng mà input được chuyển hóa và có ý nghĩa hơn đối với người học; Richard Schmit (1990) đưa ra giả thuyết về khả năng chú ý (noticing hypothesis) nhấn mạnh rằng input sẽ không có ý nghĩa gì nếu như người học không tiếp nhận một cách có chủ đích. Tôi có trích dẫn một nhận định của Schmit vài năm trước đây tại blog này: “Chúng ta sẽ không học được điều gì từ input qua việc nghe và hiểu trừ khi chúng ta chú ý tới một điều gì đó từ input. Ý thức được những đặc điểm từ input sẽ có giữ vai trò như một ‘cú huých’ để có thể kích hoạt giai đoạn đầu tiên trong quá trình kết hợp các tính năng ngôn ngữ mới vào năng lực ngôn ngữ của một người.”

Mặc dù mục đích chính của bài viết này là nói về input nhưng tôi cũng muốn cung cấp thêm một số nội dung liên quan để chúng ta có cách tiếp cận phong phú hơn. Việc tìm một thuật ngữ tiếng Việt cho khái niệm này cũng là một việc rất nên làm, thông thường các tác giả khi viết về quá trình đắc thụ ngôn ngữ hay dùng từ gốc là input-output, tương tự như thông số kỹ thuật của các thuyết bị sử dụng năng lượng: đầu vào-đầu ra. (ví dụ như một chiếc âm-ly thì có các cổng vào để nhận âm thanh, qua bộ lọc, xử lý, khuyếch đại ra loa nhờ các cổng ra). Mặc dù việc so sánh tương tự này dễ hiểu nhưng vô hình chung cũng làm cho người tiếp nhận đơn giản hóa quá trình tiếp thụ/học/phát triển một ngôn ngữ hay một ngoại ngữ vì con người chẳng bao giờ là máy móc. Chỉ có máy móc mô phỏng não bộ con người vận hành chứ không phải ngược lại. GS. Hoàng Văn Vân đâu đó sử dụng thuật ngữ “ngữ liệu đầu vào” cho từ input và “ngữ liệu đầu ra” cho từ output mà tôi đã dùng nhiều lần ở bên trên. Tuy nhiên, tôi nghĩ tới một thuật ngữ ngắn gọn hơn bằng cách kết hợp những từ hán-việt: “ngữ nhập/ngữ nhận-ngữ xuất”. Ban đầu nghe có vẻ không xuôi tai nhưng vốn là thuật ngữ thì chúng ta cũng cần tiếp nhận nó như một từ mới. Ban đầu tôi nghĩ tới ‘ngữ nguồn’ cho từ ‘input’ nhưng từ này được dùng nhiều trong dịch thuật để nói về ‘source language’ và ‘target language’ (ngữ đích). Vậy nên tôi sử dụng từ ngữ nhập (input), ngữ nhận (intake), ngữ xuất (output) từ nay về sau. (nghe giống như chuyện “cây tre trăm đốt” với khẩu lệnh khắc nhập-khắc xuất, nhưng thừa nhận rằng có thể tôi đã sử dụng sự tương đương này về mặt ngữ nghĩa)

Như vậy, giả thuyết ngữ nhập mặc dù chưa phải đã hoàn thiện và ngữ nhập không thể được coi là yếu tố “duy nhất” trong quá trình tiếp thụ một ngoại ngữ, nó vẫn có vai trò “tiên quyết” trong quá trình hấp thụ hoặc học một ngôn ngữ mới. Điều này được lặp lại trong rất nhiều nghiên cứu và các bài viết tổng thuật những năm gần đây (xem thêm Long, 1990, 2006, 2011; Ellis, 2005, 2014; VanPatten & Williams, 2007; Nation, 1996, 2007, 2013; Dornyei, 2015; Thornbury, 2015). Phần tiếp theo, tôi sẽ trình bày về cách mà ngữ nhập có thể được triển khai qua các hoạt động nghe-đọc, đặc biệt là các chương trình đọc, nghe mở rộng (extensive listening, extensive reading) được nghiên cứu, triển khai trong những năm gần đây.

2. Ngữ nhập được diễn ra bằng cách nào?

Mặc dù đâu đó có người chủ trương rằng việc phát triển ngôn ngữ diễn ra ở dạng tiềm thức (subconcious), ám chỉ rằng chỉ cần chúng ta ở trong môi trường ngôn ngữ phù hợp, tự nhiên ngôn ngữ sẽ được ‘nạp’ vào đầu và sau một thời gian ‘im lặng’, người đó có thể nói được ngôn ngữ ấy. Dẫn chứng thường được sử dụng cho luận điểm này là trẻ em từ khi sinh ra tới khi biết nói, việc học ngôn ngữ của các bé diễn ra hết sức tự nhiên và dường như không có sự can thiệp nào từ bên ngoài hay nỗ lực của các em đó, mà chỉ cần được ‘tắm’ trong môi trường ngôn ngữ, sau một thời gian (hơn 1 năm trở lên, tùy khả năng của từng đứa trẻ), các em đã có thể hấp thụ ngôn ngữ mẹ đẻ này một cách dễ dàng. Liệu có sự tham gia của tiềm thức trong quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ hay không thì chưa ai kiểm chứng được (giống như cho thai nhi nghe nhạc để thông minh cũng chỉ là một lời đồn thổi và không có cơ sở), nhưng việc trẻ chủ động, tích cực tiếp nhận một ngôn ngữ (mẹ đẻ) giống như một bản năng sinh tồn thì không thể nào chúng ta có thể phủ nhận được.

Toàn bộ những đứa trẻ bình thường đều thực hiện việc học ngôn ngữ như một bản năng, chủ động tương tác với mọi người xung quanh để học và luyện tập. Trẻ quan sát, lắng nghe rất kỹ và chủ động học hỏi thay vì chỉ thụ động. Chúng ta thường hay nghe những câu đại khái như, hãy học ngoại ngữ giống như trẻ em học tiếng mẹ đẻ của chúng vậy, nhưng quá trình trẻ tiếp thụ một ngôn ngữ như thế nào không chỉ là một lĩnh vực nghiên cứu học thuật từ rất sớm (first language acquisition), mà còn rất nhiều điều chúng ta chưa biết được về quá trình này. Vậy nên khuyên một người học ngoại ngữ (đặc biệt người học đó đã có kinh nghiệm với tiếng mẹ đẻ của mình) bắt trước quy trình học của trẻ em (với tiếng mẹ đẻ của chúng) là rất mơ hồ và vô căn cứ. Điều đó còn chưa kể thêm ngữ nhập mà trẻ có được là vô cùng phong phú, đa dạng, có tính lặp lại, liên tục và xuyên suốt. Một bài nói chuyện gần đây của Roy (2011) về “sự ra đời của một từ” cho ta thấy điều này khi mà con trai của anh ấy mất bao nhiều thời gian và tương tác để có thể nói được từ gal–water; hay Steven Pinker, người được tạp chí TIME bình chọn là “1 trong 100 người ảnh hưởng nhất trên thế giới ngày nay”, trong bài nói chuyện với chủ đề “ngôn ngữ học như là cửa sổ để hiểu về não bộ” cũng nhấn mạnh với một người bản ngữ thì trung bình họ cũng cần tới hơn 2 tiếng để học được một từ. Điều này để thấy rằng việc phát triển một ngôn ngữ, cho dù là tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ hai hoặc thứ 3 hay ngoại ngữ là một quá trình rất phức tạp và có sự tương tác của nhiều yếu tố.

Trong môi trường ngoại ngữ khi mà một ngôn ngữ được học như môn học trong các chương trình giáo dục ở các cấp học thì việc thiếu hụt nguồn ngữ nhập là điều dễ thấy. Thời lượng ở trên lớp không thể bù đắp được lượng ngữ liệu người học cần tiếp xúc để có thể đạt được một mức độ giao tiếp nhất định nào đó. Điều này còn tệ hơn khi nguồn ngữ liệu người học có được chủ yếu qua sách vở, băng đĩa hoặc từ giáo viên. Chính vì vậy người học cần được tiếp cận với ngữ liệu đích nhiều hơn thông qua vai trò hỗ trợ của người đứng lớp. Ranh giới giữa hoạt động trong lớp học và ngoài lớp học không quá rõ ràng vì rõ ràng một điều rằng chỉ khi người học thực sự học thì quá trình học mới diễn ra. Việc học này phải diễn ra cả trong và ngoài lớp học.

Để có thể bổ sung thêm nguồn ngữ liệu cho quá trình tiếp thụ ngôn ngữ mới, người học cần chủ động tiếp cận thêm các nguồn bên ngoài, mà chủ yếu thông qua hoạt động nghe-đọc. Tuy nhiên, không phải đối tượng người học nào cũng có thể tiếp cận và xử lý được nguồn ngữ nhập sẵn có bên ngoài. Điều quan trọng là người học phải hiểu được những gì họ đọc, họ nghe ở một chừng mực nhất định nào đó. Rõ ràng vai trò của người giáo viên lúc này cần hơn bao giờ hết. Người giáo viên có vai trò tạo điều kiện thuận lợi giúp người học tiếp cận, như việc làm các bài nghe bài đọc dễ hiểu hơn, dễ tiếp cận hơn thông qua việc dạy từ khóa, dạy những cấu trúc câu có thể gây khó khăn cho người học, hoặc ngay cả việc cung cấp những kiến thức nền để người học tiếp cận tốt hơn, đặc biệt là những kiến thức mang tính đặc thù văn hóa. Nếu như việc dạy-học chỉ dừng lại ở đó thì người học tự hạn chế mình tiếp cận với nguồn ngữ nhập (input). Người học cần chủ động hơn, nghe lại, đọc lại và tự tìm hiểu những nội dung liên quan sao cho vừa sức của mình để từ đó tăng cường thêm cơ hội tiếp cận với ngôn ngữ đích. Giáo viên có thể hỗ trợ nhưng không thể làm thay cho người học. Hơn nữa người học biết rõ họ cần gì và có thể trao đổi với giáo viên để được hỗ trợ sao cho người học có thể tối ưu quá trình học tập của mình.

Như vậy, người học sẽ tiếp cận với ngữ nhập qua hai giác quan chính, thị giác và thính giác hoặc qua kênh hình và kênh chữ, hoặc giản lược hơn chính là qua việc nghe và đọc. Nói thị giác và thính giác vì trong rất nhiều trường hợp người học có thể vừa nghe, vừa đọc hoặc vừa nghe vừa xem. Từ rất sớm, đã có rất nhiều người, nhà giáo dục, các nhà xuất bản chú ý tới nguồn ngữ liệu giản lược thông qua hệ thống sách viết lại (graded readers) và các đài phát thanh dành riêng cho người học (VOA). Với công nghệ hiện nay thì việc tiếp cận với nguồn ngữ nhập có thể hiểu được (comprehensible input) cũng dễ dàng hơn rất nhiều qua những công cụ dịch tự động, phụ đề, tương tác trực tiếp…Nhưng đó mới là nội dung ngữ nhập. Về mặt phương pháp tiếp cận, người học cần lưu ý tới hoạt động nghe-đọc mở rộng. Có rất nhiều nghiên cứu và dự án triển khai thí điểm mô hình đọc mở rộng, thậm chí có cả một quỹ do các nhà nghiên cứu duy trì để thúc đẩy hoạt động này. Đi kèm với đó là hội thảo thường niên và các tạp chí liên quan để hỗ trợ. Những ai quan tâm có thể tìm hiểu thêm ở ER Foundation. Ý tưởng chính của hoạt động đọc mở rộng là người học chủ động tiếp cận các bài đọc phù hợp với trình độ của mình để đọc thường xuyên, chủ yếu cho mục đích giải trí thay vì mục đích học tập, thi cử. Và thông qua quá trình này, người học sẽ có cơ hội tiếp xúc với nguồn ngữ nhập phong phú hơn, đa dạng hơn, đặc biệt là sự lặp lại của những mẫu câu, từ vựng mà người học đã học trước đó. Bên trên tôi đã dẫn một ý của Steven Pinker khi nói rằng ngay đối với 1 người bản ngữ thì trung bình mỗi từ học được, người học cũng cần tới 2 giờ. Đối với một ngôn ngữ mới, có lẽ thời lượng còn phải nhiều hơn. Một số nghiên cứu về từ vựng của người học ngoại ngữ cũng chỉ ra người học cần tiếp xúc 7-12 lần để có thể thực sự học được từ đó [sẽ bổ sung nguồn sau]. Việc tăng cường ngữ nhập không chỉ diễn ra qua hoạt động đọc mà còn qua hoạt động nghe. Nghe đài phát thanh hoặc truyền hình có thể quá sức đối với người học, nhất là người học mới bắt đầu, vậy nên hoạt động nghe mở rộng cũng cần được chú ý nhiều hơn. Nhưng hiện nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu hoặc các dự án điển hình triển khai hoạt động này.

3. Tài nguyên cho hoạt động nghe-đọc mở rộng

3.1. Hoạt động đọc mở rộng (extensive reading)

Khi nói về phương pháp hay cách tiếp cận, điều tối kỵ là cho rằng một phương pháp có thể vạn năng giải quyết được tất cả vấn đề hoặc phù hợp cho tất cả mọi người. Nó giống như việc người ta vẫn cố gắng đi tìm một thứ thần dược để trị bách bệnh hay có thể sống trẻ mãi không già vậy. Tương tự như vậy, hoạt động đọc mở rộng cũng yêu cầu người học có những kiến thức tối thiểu trong ngôn ngữ mới để có thể đọc được, hay nói cách khác họ phải biết đọc. Một người học chưa đọc tiếng Anh bao giờ mà ném cho người đó một cuốn truyện tranh, dù rất đơn giản bằng tiếng Anh cũng là một thách thức rất lớn đối với họ. Vì vậy, người học cần trang bị những kiến thức tối thiểu như lượng từ vựng tối thiểu, những cấu trúc câu đơn giản…để có thể hiểu được các bài đọc đơn giản, được minh họa qua hình ảnh, tranh vẽ. Rất nhiều nhà xuất bản từ lâu đã xuất bản các bộ sách cho người học ngoại ngữ, phân loại theo các mức độ từ đơn giản đến phức tạp hơn, chủ yếu dựa vào lượng từ vựng người học có được. Đây là những cuốn sách được viết lại từ những truyện ngắn, tiểu thuyết nổi tiếng, nhưng với ngôn ngữ đơn giản dù vẫn giữ nguyên cốt truyện. Đối với người học ở trình độ cao hơn, họ có thể tiếp cận những tài liệu khó hơn, miễn sao mà họ đọc không bị gián đoạn. Nghiên cứu chỉ ra rằng người học cần biết 98% lượng từ vựng để có thể đọc mà không bị gián đoạn trong việc hiểu nội dung (Nation, 2000). Các bộ sách viết lại người học có thể tiếp cận qua thư viện ở trường (VD. Tủ Sách NVQ ở KNN, ĐHTN & Bookworm’s Conner chính là một trong những nỗ lực để đưa hoạt động đọc mở rộng vào chương trình) hoặc qua các hệ thống thư viện đọc mở rộng online như: er-central.com hoặc tin ngắn như www.simpleenglishnews.com; Ngoài ra những tạp chí song ngữ, những truyện thiếu nhi…đều có thể là nguồn tài liệu có thể rất hữu ích. Điều quan trọng là những ngữ liệu này phải phù hợp với trình độ, hứng thú và mối quan tâm của mỗi người học. Chính người học biết rõ mình cần gì nhất.

3.2. Hoạt động nghe mở rộng

Ngữ nhập rất quan trọng cho việc phát triển kỹ năng nghe và ngôn ngữ nói (oral/khẩu ngữ) chính là việc việc tiếp cận với những tài liệu nghe mà người học có thể hiểu được. Lâu nay, việc nghe chủ yếu diễn ra trong phạm vi lớp học và người học ít khi chủ động nghe thêm bên ngoài, có chăng cũng chủ yếu làm các bài tập được giáo viên yêu cầu. Giống như họat động đọc mở rộng, nghe mở rộng cũng do chính người học lựa chọn những nội dung sao cho phù hợp với trình độ, hứng thú, mối quan tâm của mình. Nếu gặp khó khăn, người học hoàn toàn có thể nhờ giáo viên tư vấn, và đó cũng mới là vai trò chính của người giáo viên hiện đại.

Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy một số nguồn tài nguyên rất hữu ích mà người học có thể khai thác cho hoạt động nghe mở rộng.

a. Podcast: hệ thống các bài nghe được cập nhật thường xuyên như một dạng blog nhưng ở dạng âm thanh với rất nhiều chủ đề đa dạng. Người học có thể đăng ký theo dõi và nghe thường xuyên về những chủ đề mà họ quan tâm. Đối với người học tiếng Anh, ESLpod cho tới thời điểm này vẫn là điểm dừng số 1 cho đa số người học trên thế giới. Người học được học miễn phí và có cơ hội hiểu thêm về văn hóa Mỹ. Người học miễn phí truy cập, nhưng có thể phải trả thêm phí nếu muốn truy cập thêm phần chữ (transcript). Nhưng ESLpod mới chỉ là một tỏng vô số những hệ podcast khác nhau được đăng tải thường xuyên qua iTune, một phần mềm Apple. Qua iTune, người học có thể lựa chọn rất nhiều các kênh khác nhau, gồm cả những kênh học tiếng và những kênh giáo dục, giải trí khác. Hướng dẫn sử dụng iTune cho hoạt động nghe mở rộng tôi sẽ viết hoặc làm video HD trong một bài khác.

b. Website: có rất nhiều website hỗ trợ người học nghe mở rộng, www.elllo_Org là một ví dụ điển hình. Ngoài ra, người học còn có thể nghe xem các video trên youtube hoặc các kênh tương tự, nhưng chú ý vào những hoạt động nghe. Trước đây tôi có tập hợp vài địa chỉ tại đây: Google Sites: Sign-in (https://sites.google.com/site/call4cec/computer-tools/videos)

c. TED Talks cũng là một địa chỉ tôi yêu thích vì thông qua những bài nói chuyện, chúng ta không chỉ nghe thêm tiếng Anh mà còn học thêm được rất nhiều những kiến thức khác. Thú vị hơn nữa là TED có cộng tác ở khắp nơi trên thế giới dịch phụ đề ra các ngôn ngữ khác nhau và còn có các tổ chức địa phương triển khai mô hình và chia sẻ lên TEDx. VD một bài nói chuyện gần đây của Ms. Thao Griffths, nói chuyện về một chủ đề rất nhiều ý nghĩa và chuyển tới thế hệ trẻ một thông điệp vô cùng thú vị: Fighting in the past, fighting for the future;

Tóm lại

Có rất nhiều yếu tố liên quan tới quá trình học/tiếp thụ một ngôn ngữ mới, đặc biệt khi ngôn ngữ đó có vai trò như một ngoại ngữ. Ngữ nhập (input) là điều kiện cần (nhưng chưa đủ) để người học có thể phát triển năng lực ngôn ngữ của mình. Chương trình học ngoại ngữ chính quy thường không đủ để người học có thể tiếp xúc với nhiều nguồn ngữ liệu phong phú. Do vậy cả người dạy và người học cần lưu tâm tới sự thiếu hụt này để có sự bù đắp sao cho phù hợp. Trong bài viết này, tôi tổng thuật qua về khái niệm ngữ nhập và vị trí của nó trong quá trình phát triển một ngoại ngữ, sau đó tôi trình bày hai hoạt động chính để tăng cường ngữ nhập thông qua nghe-đọc mở rộng (extensive listening/reading). Cuối cùng, tôi gợi ý một số nguồn tài nguyên tham khảo để người dạy-người học có thể triển khai trong thực tế. Trong bài viết tiếp theo, tôi sẽ chia sẻ cách triển khai cụ thể qua những ví dụ cụ thể. Bài viết này giúp người đọc có bức tranh chung về hai hoạt động này và mối liên hệ tới ngữ nhập (một trong những điều kiện cần của thụ đắc ngôn ngữ) trước khi thực hiện những hoạt động cụ thể.
The Ecology of Language Aquisition.jpg

Đọc thấy hay nên chia sẻ thôi.
 
Last edited:
Gửi bác câu chuyện vui:
Trong một lớp học về tiếng Anh học thuật (academic English) cho sinh viên quốc tế đang theo học ở một trường đại học nằm giữa đại dương, thầy giáo giới thiệu một số kỹ thuật (strategies) về ghi chép (notetaking) để các bạn sinh viên làm quen và sử dụng trong quá trình nghe giảng các môn chuyên ngành. Sau khi trình bày xong, sinh viên thảo luận với nhau về những điểm mạnh, điểm yếu của mỗi kỹ thuật. Sau đó, một em nữ sinh từ xứ sở kim chi giơ tay phát biểu:
Kim Chi: Thưa thầy, em thấy những kỹ thuật ghi chép thầy giới thiệu thì có thể áp dụng trong việc nghe giảng các môn chuyên ngành, nhưng khi phải ghi chép làm bài thi TOEFL, em nghĩ hơi khó áp dụng, thầy có kỹ thuật nào hữu ích không?
Thầy giáo lắng nghe chăm chú, nhìn Kim Chi với vẻ vừa tò mò, vừa bối rối. Cả lớp yên lặng. Thầy giáo quay sang cầm cây bút (marker) và chậm giãi nói:
Tôi không nghĩ rằng tôi có thể trả lời câu hỏi của em, nhưng có một ý tôi muốn chia sẻ với em và các bạn trong lớp. Vừa nói, thầy vừa viết chữ TOEFL lên bảng: Mục đích của bài thi TOEFL hay IELTS là nhằm khảo sát xem người học có đủ năng lực tiếng Anh/sẵn sàng để có thể theo học các chương trình đại học hoặc sau đại học ở một quốc gia (nói tiếng Anh) hay không? Nếu như em và các bạn có thể học tập tại đây thì tại sao còn băn khoăn về điểm số ấy?

Rất nhiều người, gồm cả những người trong & ngoài cuộc thường làm ngơ khi kết quả bài thi TOEFL/IELTS bị diễn giải sai hoặc bị sử dụng nhầm chỗ, một phần vì sự thiếu hiểu biết, một phần vì lợi ích đi kèm với nó quá lớn nên khó lòng cưỡng lại được. Nhưng điều đáng tiếc là nó được sử dụng để đưa ra những quyết định ảnh hưởng tới cuộc sống của nhiều người, những người chỉ sử dụng tiếng Anh vào những công việc cụ thể (dạy học, du lịch, làm việc…) mà không/chưa có ý định sử dụng tiếng Anh học thuật cho mục đích hàn lâm. Đành rằng là có học có hơn (học thuật), độ tin cậy của các bài thi ấy khá cao, và chắc hẳn đánh giá được năng lực tiếng Anh của người học, nhưng nó phục vụ tốt nhất cho mục đích đã đề ra: hoạt động học tập, nghiên cứu bằng tiếng Anh ở trình độ đại học & sau đại học. Nếu dùng những bài thi ấy làm chuẩn hoặc cóp nhặt một phần từ những bài thi ấy thì dễ dàng chúng ta bị sa đà vào sự bất công. Nó giống như câu nói mà thường được cho rằng của Albert Einstein:


Ở góc độ kỹ thuật, bài thi TOEFL/IELTS là một loại hình chuẩn hoá, có nghĩa là điểm số của người học B chính là vị trí xếp hạng của người đó so với những người khác A-Z chứ không phải số câu trả lời đúng người học có được từ bài thi. Thêm vào đó, kết quả bài thi có được phải trải qua một quá trình phân tích phức tạp nhằm loại bỏ những yếu tố ăn may hoặc yếu tố bất thường có được từ quá trình gian lận hoặc thủ thuật làm bài. Chính vì thế việc luyện thi quá mức hoặc tập trung quá nhiều vào các mẹo mực sẽ chẳng giúp người học nâng cao năng lực ngôn ngữ. Khi người học có năng lực ngôn ngữ thì đều có thể thể hiện được cho dù đó là công cụ đo nào chăng nữa. Việc luyện thi nhằm mục đích làm quen hình thức bài thi hoặc được sử dụng như một kỹ thuật dạy học giúp người học nâng cao năng lực ngôn ngữ vẫn có giá trị, nhưng nếu chỉ tìm mọi cách để nâng cao điểm số thì là một việc cần xem xét lại.

Chúng ta học tốt hơn khi:
1. Nguyên tắc mạch lạc: Chúng ta học tốt hơn khi những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh tạp (không liên quan) bị loại bỏ thay vì được thêm vào. Coherence Principle/People learn better when extraneous words, pictures and sounds are excluded rather than included.
Liên hệ: nguyên tắc này cũng giống với một nguyên tắc trong thiết kế/tư duy thiết kế “bớt là thêm/Less is more“. Khi trình bày bằng PowerPoint mà giáo viên lặp lại những gì đã “chiếu” ở trên màn hình thì như vậy là thừa; chèn những hiệu ứng vui nhộn không phục vụ mục đích dạy-học cũng là tạp nham; sử dụng đa màu sắc mà chẳng để nhấn mạnh nội dung gì cũng là cách làm thiếu hiểu biết.

2. Nguyên tắc tín hiệu: Chúng ta học tốt hơn khi việc tổ chức những thông tin quan trọng được nhấn mạnh nhờ các dấu hiệu. Signaling Principle/People learn better when cues that highlight the organization of the essential material are added.
Liên hệ: khả năng chú ý và ghi nhớ của con người có giới hạn vậy niên việc tổ chức thông tin một cách có hệ thống, logic và sử dụng các phương pháp khác nhau giúp người học nhận ra là vô cùng cần thiết. Khi thiết kế trang chiếu, cỡ chữ, phông chữ, màu sắc nhất quán cho các tiêu đề cũng sẽ giúp người học tiếp nhận thông tin tốt hơn. VD trong bài trình bày sử dụng hai màu chủ đạo, xanh thẫm và xanh non, xanh thẫm dành có các ý chính, xanh non dành có các ví dụ, ý bổ sung…như vậy người tiếp nhận sẽ dễ dàng phân biệt hơn qua việc tổ chức thông tin bằng màu sắc.

3. Nguyên tắc dư thừa: Chúng ta học tốt hơn từ đồ họa/hình ảnh kết hợp với diễn giải bằng lời nói thay vì đồ họa, diễn giải, lại thêm chữ trên màn hình. Redundancy Principle/People learn better from graphics and narration than from graphics, narration and on-screen text.
Liên hệ: một thói quen rất phổ biến của nhiều giáo viên khi sử dụng PowerPoint là “chiếu” hết những gì định nói lên màn hình, thậm chí đọc lại những gì đã chiếu, thật nhàn hạ cho giáo viên :(. Các nghiên cứu của Mayer cho thấy chúng ta xử lý thông tin chủ yếu qua hai kênh: kênh hình ảnh (pictorial) và kênh ngôn ngữ (verbal), vậy nên khi đã nói rồi mà còn bắt người tiếp nhận đọc thì xảy ra việc quá tải (cognitive overload) vì cả hai nguồn này đều đi vào khu vực xử lý ngôn ngữ (verbal). Tương tự như vậy, việc giảng bài trực tuyến mà đã có màn hình, lại chèn thêm video của người nói ở một góc màn hình là rườm rà vì người tiếp nhận phải phân bổ khả năng chú ý cho các chi tiết trên màn hình, video của người nói, giọng nói, và đôi khi cả chữ viết nữa. Như vậy người tiếp nhận vừa bị quá tải kênh hình ảnh (màn hình + video người nói) và kênh ngôn ngữ (giọng nói + chữ viết).

4. Nguyên tắc tiếp giáp (không gian): Chúng ta học tốt hơn khi chữ và hình ảnh tương ứng được trình bày ở gần nhau thay vì cách xa nhau ở trên một trang hoặc màn hình. Spatial Contiguity Principle/People learn better when corresponding words and pictures are presented near rather than far from each other on the page or screen.
Liên hệ: giống như nguyên tắc tương cận (proximity) trong thiết kế đồ họa và tư duy thiết kế, những thứ thuộc về nhau, liên quan tới nhau thì nên để gần với nhau để giúp người tiếp cận dễ dàng nhận ra mối liên hệ của chúng. Đây cũng là cách tư duy về mặt không gian, nếu chúng ta chú ý một chút sẽ thấy những dòng chữ này thuộc về mục liên hệ và nó cũng có một khoảng cách tương đối với mục nguyên tắc. Trong khi thiết kế trang chiếu cũng vậy, những hình ảnh mà gắn với khái niệm/từ khóa nào thì cũng cần được để gần nhau, giúp người tiếp nhận nhận ra mối liên hệ dễ dàng hơn thay vì phải suy luận và tự kết luận.

5. Nguyên tắc tiếp giáp (thời gian): Chúng ta học tốt hơn khi chữ và hình ảnh được trình bày đồng thời thay vì liên tiếp. Temporal Contiguity Principle/People learn better when corresponding words and pictures are presented simultaneously rather than successively.
Liên hệ: Điều rất dễ thấy là khi giáo viên trình bài một khái niệm, dùng hiệu ứng cho hình chạy ra trước, rồi từ khóa xuất hiện sau thay vì nhóm chúng vào với nhau, cho xuất hiện đồng thời.

6. Nguyên tắc phân khúc: Chúng ta học tốt hơn khi một bài học đa phương tiện được trình bày thành các phân đoạn, phù hợp với nhịp độ của người dùng thay vì trình bày chúng thành một bài liên tục. Segmenting Principle/ People learn better from a multimedia lesson is presented in user-paced segments rather than as a continuous unit.

7. Nguyên tắc tiền tập: Chúng ta học tốt hơn từ một bài học đa phương tiện khi chúng ta biết tên gọi và các đặc điểm của những khái niệm chính. Pre-training Principle/People learn better from a multimedia lesson when they know the names and characteristics of the main concepts.
Liên hệ: Giống như trong một bài dạy về kỹ năng đọc (ngoại ngữ), giáo viên có thể cung cấp những từ khóa, từ mới và những cấu trúc mà người học chưa biết để quá trình đọc trở lên hiệu quả hơn.

8. Nguyên tắc thể thức: Chúng ta học tốt hơn từ hình ảnh và tường thuật (giọng nói) thay vì hoạt hình và văn bản trên màn hình. Modality Principle/People learn better from graphics and narrations than from animation and on-screen text.
Liên hệ: Việc nghe ai đó nói, kết hợp với việc minh họa bằng cử chỉ điệu bộ, hình ảnh sẽ hiệu quả hơn hoạt họa và văn bản trên màn hình. Hai thể thức sau không gần gũi, thân thiện với con người.

9. Nguyên tắc đa phương tiện: Chúng ta học tốt hơn từ chữ và hình ảnh thay vì chỉ học từ mỗi kênh chữ thông thường. Multimedia Principle/ People learn better from words and pictures than from words alone.

10. Nguyên tắc cá nhân hóa: Chúng ta học tốt hơn từ các bài học đa phương tiện được khi kênh ngôn ngữ được trình bày qua trong cách hội thoại thay vì phong cách trang trọng. Personalization Principle/ People learn better from multimedia lessons when words are in conversational style rather than formal style.
Liên hệ: Khi xuất hiện phương thức đào tạo từ xa, các bài giảng được ghi hình đóng gói, rất nhiều khóa học tôi xem thì thấy giáo viên ngồi ở trong phòng thu, rất trang trọng và nghiêm túc đọc hoặc giảng bài. Vô hình chung, các làm này tạo ra khoảng cách đối với người học, không tạo ra sự kết nối giữa người với người. Chúng ta kết nối dễ dàng hơn qua những câu chuyện và chia sẻ thân tình thay vì việc giữ khoảng cách như một cách thể hiện quyền lực.

11. Nguyên tắc giọng nói: Chúng ta học tốt hơn khi mà lời thuật trong các bài học đa phương tiện là giọng nói của con người thay vì sử dụng giọng nhân tạo của máy tính. Voice Principle/People learn better when the narration in multimedia lessons is spoken in a friendly human voice rather than a machine voice.

12. Nguyên tắc hình ảnh: Chúng ta học tốt khi mà hình ảnh của người trình bày không nhất thiếtphải xuất hiện trên màn hình. Image Principle/People do not necessarily learn better from a multimedia lesson when the speaker’s image is added to the screen.

Người nói sẽ là bậc thầy giao tiếp khi biết vận dụng thành thục một loại ngôn ngữ phổ biến khác:

Đọc - Hiểu​

Theo định nghĩa của từ điển Cambridge thì Comprehension là:
A test to find out how well students understand written or spoken English.
Dịch ra comprehension là một cách để “test” xem bạn hiểu một đoạn hoặc một câu tiếng Anh đến cỡ nào.
Tôi lấy ví dụ một câu trong khúc mở đầu của cuốn The Selfish Gene:
Let me repeat and expand the rationale for the word 'selfish' in the title.
Cả câu này gần như không có từ nào chua ngoài chữ “rationale” (danh từ của rational, nghĩa là mức độ hợp lý) là có vẻ lạ lạ. Về nguyên tắc, việc không biết 1/14 chữ (7% ) số từ trong một câu không phải là chuyện gì lớn nhưng khổ cái là chữ duy nhất không biết ở đây lại là một từ khóa (keyword) dẫn đến khả năng cả câu chả hiểu gì là rất cao.
Một ví dụ khác, tôi chọn đại một câu ở đoạn giữa của cuốn Fooled by Randomness của Nassim Taleb mà tôi đang thích thú ngấu nghiến, nó như này:
What he meant by that statement was that the "noise" was mean reverting, and would likely be offset by "noise" in the opposite direction.
Đọc xong lú luôn, cảm giác kiểu tôi là ai và đây là đâu như kiểu vừa đọc triết Hegel. Và hiển nhiên câu này cũng được đánh giá là một câu khá chua để hiểu, để “comprehend” được. Vì sao?
Vì một trong những từ khóa của câu này vốn là một từ gốc pháp “reverting” lại đang là một từ ở cấp độ C nghĩa là một từ không nhiều người có thể hiểu nghĩa, chỉ có đoán. Chưa kể, câu này chứa hai cụm từ hay sử dụng và cần hiểu theo cụm.
a.What he meant by… was… (Ý ảnh khi nói… là…)
b.In the opposite direction (Theo hướng ngược lại)
Chính do việc đọc hiểu_đọc để hiểu được ý_vốn dĩ đã là một việc chả dễ ăn gì nên 12 năm đi học cộng với vài năm đại học, một người sẽ chủ yếu được dạy để đọc hiểu là chính và kỹ năng đọc hiểu là một kỹ năng không thể thiếu trong tất cả các kỳ thi ngôn ngữ quốc tế. Luyện mãi cũng phải giỏi lên, phải công nhận là người Việt chúng ta thế hệ 8X, 9X hay gần nhất là gen Z đọc hiểu rất siêu.
Trong quá trình đi làm ngày nay, việc đọc hiểu tài liệu chuyên ngành (thường viết bằng tiếng Anh) thì quan trọng khỏi phải bàn. Thế nhưng trong khoảng 20 năm đổ lại, nhất là sau sự cố máy tính Y2K năm 2000 cùng sự đổ bộ của internet và wifi, thế giới đã bị ủi phẳng ra nhiều, đồng nghĩa với việc một anh châu Á giờ đây có thể làm việc ở mọi nơi nếu anh ta có thể hợp tác tốt, mà hợp tác tốt nghĩa là không chỉ có cắm đầu cày tài liệu và đọc hiểu email, mà khi cần là phải mở miệng nói chuyện được, đúng ra là phải tranh luận được, nói đùa, gọi điện và đi nhậu được.
Nhưng nếu chúng ta để ý ta sẽ thấy rằng, việc đọc hiểu đã chua còn việc nói được thậm chí còn khó hơn việc đọc hiểu nhiều lần.
Khi đọc hiểu, nếu ta là một người biết khá nhiều từ vựng đơn lẻ, biết một vài thành ngữ thông dụng, biết quan sát và cảm nhận ngữ điệu người nói, thì cho dù thậm chí là không giỏi về thì hay ngữ pháp lắm ta vẫn hoàn toàn có thể “đoán” ý người đối diện, tức là nghe ổn và đọc hiểu tốt. Điều này giải thích cho rất nhiều cảnh không biết nhiều tiếng Anh hay chỉ dùng tiếng Anh bồi nhưng vẫn sống sót và hòa nhập tốt khi đi nước ngoài.
Hiện nay, một câu nói trung bình dài từ 15 đến 20 từ, nếu ta xem từ khóa lần lượt là động từ, danh từ và tính từ trong câu thì chỉ có đâu đó khoảng 15%-20% số từ trong một câu mà ta gọi là nhất quyết phải biết để có thể đoán nghĩa cả câu. Thật sự không nhiều.
avarage-sentence.png

Đấy là câu chuyện của “đọc hiểu”, câu chuyện nói được lại là hoàn toàn khác. Thực ra, tương tự như đọc hiểu, “nói hiểu” về bản chất cũng như “đọc hiểu”, không cần nhiều từ, cũng chỉ cần biết tầm 20% số từ khóa là đủ để truyền đạt thông tin ở mức gọi là cơ bản, là hiểu được. Nhưng đương nhiên đòi hỏi người nói phải là bậc thầy giao tiếp khi biết vận dụng thành thục một loại ngôn ngữ phổ biến khác chính là ngôn ngữ cơ thể để múa may quay cuồng kèm theo ngữ điệu được canh chỉnh phù hợp. Nói cách khác, anh không giỏi tiếng Anh thì anh phải là diễn viên múa.
body-language.png

Đấy là chuyện nói sao cho đủ hiểu, còn để nói cho hay, cho tròn và đủ ý thì rất có thể một người phải biết trên 90% số từ cần nói trong câu.
Ví dụ, để truyền đạt ý tưởng sau: Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân lên đất Mỹ.
why-speak-2.png

Đáp án chuẩn của bộ sẽ là: This is the first time I’ve set foot on American soil.
Để làm được điều đó, người nói chẳng những phải biết mọi từ khóa mà còn phải biết và rành cụm hay dùng để nói cho đúng và trơn tru thay vì ghép từng chữ một.
Trong câu trên, cụm từ cần biết và trơn tru là “This is the first time…” (bạn nào muốn giỏi cả tense thì học luôn cụm “This is the first time I’ve…”) và cụm “set foot on American soil”.
Người đã rành rọt hai cụm này sẽ xử lý câu này bằng hai nhát kiếm đơn giản như trên, xẹt xẹt cái là xong, gọn gàng, đẹp đẽ, trơn tru và ngắt nhịp đúng điệu.
Tóm lại, điểm khác biệt cơ bản và lớn nhất giữa quá trình luyện đọc hiểu (Reading) và luyện nói (Speaking) là khả năng thực luyện tập mở miệng nói theo cụm vô số lần để tạo thói quen vô thức, chứ không chỉ là việc thuần biết nghĩa nhiều từ vựng và cụm từ như một cuốn từ điển di động.
Thực ra, chả có gì bí mật ở đây, bạn muốn luyện nghe cho trơn tru hay đọc cho trơn tru cũng phải luyện y hệt như để nói trơn tru, là luyện nghe theo cụm và luyện đọc theo cụm chứ không phải nghe hay đọc theo kiểu ghép từng chữ kiểu word by word. Chỉ khác là bạn chỉ mới nghe hay đọc okay nhưng không trơn tru thì chả ai biết, còn nói không trơn tru là sẽ lòi ra ngay giữa bàn họp lãnh đạo mỗi sáng thứ hai, đúng chứ? Nhưng chuyện đó ta sẽ dành để lúc khác sẽ bàn.
Link đã tèo.

Tăng cường input trong học ngoại ngữ:

1. Ngữ nhập/Input là gì?​

Khái niệm ngữ liệu đầu vào (input) được Krashen đưa ra và phổ biến vào những năm 1980 nhằm nhấn mạnh tơi việc người học ngoại ngữ, cũng giống như một người tiếp thụ tiếng mẹ đẻ của mình, cần rất nhiều ngữ liệu đầu vào thông qua việc nghe, đọc để sau này có thể nói, viết. Chính vì thế hoạt động học ngoại ngữ không thể diễn ra, hoặc không thành công là do người học, đặc biệt trong môi trường ngoại ngữ, chưa có đủ nguồn ngôn ngữ để tiếp nhận, qua đó kích hoạt được những thông số bên trong não bộ (như cách nói của Chomsky (parameter settings)). Từ giả thuyết này, Krashen cho rằng chỉ cần người học được tiếp xúc với nguồn ngữ liệu phù hợp sau một thời gian nhất định người học sẽ có thể “đắc thụ” được ngôn ngữ đích. Ông cũng phân biệt hai quá trình trong việc phát triển ngoại ngữ: học vs. thụ đắc. Lập luận của Krashen nhấn mạnh rằng, thụ đắc ngôn ngữ là một quá trình mang tính tiềm thức (subconscious), nó diễn ra một cách tự nhiên mà không cần có sự can thiệp của ý thức. Ngược lại, học ngôn ngữ diễn ra một cách chính thức, có sự tham gia của ý thức, đặc biệt là người học ngoại ngữ, quá trình này diễn ra một cách có ý thức, được các giáo viên dạy ở trường lớp thay vì người học tiếp nhận trong môi trường tự nhiên như tiếng mẹ đẻ.

Giả thuyết của Krashen rất hợp lý và có tính thuyết phục cao, phù hợp với hiểu biết chung của nhiều người (common sense) nên được người học và người dạy ngoại ngữ đón nhận nhiệt tình. Bản thân Krashen cũng nhận được rất nhiều cơ hội từ những lý luận mà ông đưa ra (gồm 5 giả thuyết khác) như việc diễn thuyết, tổ chức tập huấn cho giáo viên, xin tài trợ thành công cho các dự án nghiên cứu, xuất bản tạp chí và sách…Thêm vào đó, ý tưởng này cũng tạo nhiều cảm hứng cho những người làm công tác đào tạo ngoại ngữ, thậm chí là doanh nhân ngoại ngữ. Tuy nhiên, giả thuyết của Krashen không phải được tất cả mọi người đón nhận, đặc biệt là những nhà hàn lâm và các nhà nghiên cứu. Họ đặt ra những câu hỏi liên quan tới giả thuyết này và chỉ ra rằng ý tưởng input nghe hấp dẫn nhưng không thể kiểm chứng được về mặt khoa học. Đồng ý rằng ngữ liệu đầu vào rất có ý nghĩa và giữ vai trò quan trọng, nhưng không phải tất cả input đều có tác động như nhau. Đối với một người tiếp thụ tiếng mẹ đẻ ngay từ khi mới lọt lòng, nguồn ngữ liệu mà đứa trẻ đó tiếp nhận là vô cùng phong phú và đa dạng, tuy nhiên, điều này khó có thể được hiện thực hóa cho người học ngoại ngữ. Sau đó Krashen cũng điều chỉnh giả thuyết của mình cho hợp lý hơn. Ông cho rằng nguồn ngữ liệu đó phải cao hơn trình độ hiện tại của người học một chút, nhưng vẫn giúp người học hiểu được với thuật ngữ “i+1” (comprehensible input) thì quá trình thụ đắc ngôn ngữ sẽ diễn ra thành công. Một lần nữa, thật khó có thể định nghĩa được thế nào là i+1, đặc điểm của nó là gì và làm sao có được i+1 cho nhiều người học khác nhau.

Những năm tiếp theo cũng có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng nếu chỉ nhờ vào input thì sẽ không đủ, người học có thể đạt được mức độ nhất định trong quá trình học ngoại ngữ nhưng khó có thể phát triển ở các mức độ cao hơn. Swain (1985) chỉ ra điều này khi bà nghiên cứu những người học tiếng Anh trong các chương trình ‘tắm’ ngôn ngữ (immersion) tại Canada. Người học đạt được mức độ thuần thục khi giao tiếp, khi nghe nói nhưng về mặt ngữ pháp vẫn có rất nhiều lỗi sai mà mặc dù họ có thể sử dụng tiếng Anh như một ngoại ngữ thành công cho những hoạt động cơ bản, tiếng Anh của họ nghe vẫn có vẻ như tiếng Anh “bồi” (pidginized). Từ đó bà đưa ra một giả thuyết mới: giả thuyết về ngữ liệu đầu ra (output hypothesis), bổ sung cho giả thuyết của Krashen. Vấn đề không chỉ đơn giản là đầu vào-đầu ra (input-output) như hai giả thuyết trên mà nó còn phức tạp hơn nhiều khi sau này các lý thuyết gia bổ sung thêm những lập luận mới từ những nghiên cứu của mình. Mike Long đưa ra giả thuyết về tương tác (interaction hypothesis) qua luận án tiến sĩ của mình, cho rằng chính nhờ quá trình tương tác và thương lượng mà input được chuyển hóa và có ý nghĩa hơn đối với người học; Richard Schmit (1990) đưa ra giả thuyết về khả năng chú ý (noticing hypothesis) nhấn mạnh rằng input sẽ không có ý nghĩa gì nếu như người học không tiếp nhận một cách có chủ đích. Tôi có trích dẫn một nhận định của Schmit vài năm trước đây tại blog này: “Chúng ta sẽ không học được điều gì từ input qua việc nghe và hiểu trừ khi chúng ta chú ý tới một điều gì đó từ input. Ý thức được những đặc điểm từ input sẽ có giữ vai trò như một ‘cú huých’ để có thể kích hoạt giai đoạn đầu tiên trong quá trình kết hợp các tính năng ngôn ngữ mới vào năng lực ngôn ngữ của một người.”

Mặc dù mục đích chính của bài viết này là nói về input nhưng tôi cũng muốn cung cấp thêm một số nội dung liên quan để chúng ta có cách tiếp cận phong phú hơn. Việc tìm một thuật ngữ tiếng Việt cho khái niệm này cũng là một việc rất nên làm, thông thường các tác giả khi viết về quá trình đắc thụ ngôn ngữ hay dùng từ gốc là input-output, tương tự như thông số kỹ thuật của các thuyết bị sử dụng năng lượng: đầu vào-đầu ra. (ví dụ như một chiếc âm-ly thì có các cổng vào để nhận âm thanh, qua bộ lọc, xử lý, khuyếch đại ra loa nhờ các cổng ra). Mặc dù việc so sánh tương tự này dễ hiểu nhưng vô hình chung cũng làm cho người tiếp nhận đơn giản hóa quá trình tiếp thụ/học/phát triển một ngôn ngữ hay một ngoại ngữ vì con người chẳng bao giờ là máy móc. Chỉ có máy móc mô phỏng não bộ con người vận hành chứ không phải ngược lại. GS. Hoàng Văn Vân đâu đó sử dụng thuật ngữ “ngữ liệu đầu vào” cho từ input và “ngữ liệu đầu ra” cho từ output mà tôi đã dùng nhiều lần ở bên trên. Tuy nhiên, tôi nghĩ tới một thuật ngữ ngắn gọn hơn bằng cách kết hợp những từ hán-việt: “ngữ nhập/ngữ nhận-ngữ xuất”. Ban đầu nghe có vẻ không xuôi tai nhưng vốn là thuật ngữ thì chúng ta cũng cần tiếp nhận nó như một từ mới. Ban đầu tôi nghĩ tới ‘ngữ nguồn’ cho từ ‘input’ nhưng từ này được dùng nhiều trong dịch thuật để nói về ‘source language’ và ‘target language’ (ngữ đích). Vậy nên tôi sử dụng từ ngữ nhập (input), ngữ nhận (intake), ngữ xuất (output) từ nay về sau. (nghe giống như chuyện “cây tre trăm đốt” với khẩu lệnh khắc nhập-khắc xuất, nhưng thừa nhận rằng có thể tôi đã sử dụng sự tương đương này về mặt ngữ nghĩa)

Như vậy, giả thuyết ngữ nhập mặc dù chưa phải đã hoàn thiện và ngữ nhập không thể được coi là yếu tố “duy nhất” trong quá trình tiếp thụ một ngoại ngữ, nó vẫn có vai trò “tiên quyết” trong quá trình hấp thụ hoặc học một ngôn ngữ mới. Điều này được lặp lại trong rất nhiều nghiên cứu và các bài viết tổng thuật những năm gần đây (xem thêm Long, 1990, 2006, 2011; Ellis, 2005, 2014; VanPatten & Williams, 2007; Nation, 1996, 2007, 2013; Dornyei, 2015; Thornbury, 2015). Phần tiếp theo, tôi sẽ trình bày về cách mà ngữ nhập có thể được triển khai qua các hoạt động nghe-đọc, đặc biệt là các chương trình đọc, nghe mở rộng (extensive listening, extensive reading) được nghiên cứu, triển khai trong những năm gần đây.

2. Ngữ nhập được diễn ra bằng cách nào?

Mặc dù đâu đó có người chủ trương rằng việc phát triển ngôn ngữ diễn ra ở dạng tiềm thức (subconcious), ám chỉ rằng chỉ cần chúng ta ở trong môi trường ngôn ngữ phù hợp, tự nhiên ngôn ngữ sẽ được ‘nạp’ vào đầu và sau một thời gian ‘im lặng’, người đó có thể nói được ngôn ngữ ấy. Dẫn chứng thường được sử dụng cho luận điểm này là trẻ em từ khi sinh ra tới khi biết nói, việc học ngôn ngữ của các bé diễn ra hết sức tự nhiên và dường như không có sự can thiệp nào từ bên ngoài hay nỗ lực của các em đó, mà chỉ cần được ‘tắm’ trong môi trường ngôn ngữ, sau một thời gian (hơn 1 năm trở lên, tùy khả năng của từng đứa trẻ), các em đã có thể hấp thụ ngôn ngữ mẹ đẻ này một cách dễ dàng. Liệu có sự tham gia của tiềm thức trong quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ hay không thì chưa ai kiểm chứng được (giống như cho thai nhi nghe nhạc để thông minh cũng chỉ là một lời đồn thổi và không có cơ sở), nhưng việc trẻ chủ động, tích cực tiếp nhận một ngôn ngữ (mẹ đẻ) giống như một bản năng sinh tồn thì không thể nào chúng ta có thể phủ nhận được.

Toàn bộ những đứa trẻ bình thường đều thực hiện việc học ngôn ngữ như một bản năng, chủ động tương tác với mọi người xung quanh để học và luyện tập. Trẻ quan sát, lắng nghe rất kỹ và chủ động học hỏi thay vì chỉ thụ động. Chúng ta thường hay nghe những câu đại khái như, hãy học ngoại ngữ giống như trẻ em học tiếng mẹ đẻ của chúng vậy, nhưng quá trình trẻ tiếp thụ một ngôn ngữ như thế nào không chỉ là một lĩnh vực nghiên cứu học thuật từ rất sớm (first language acquisition), mà còn rất nhiều điều chúng ta chưa biết được về quá trình này. Vậy nên khuyên một người học ngoại ngữ (đặc biệt người học đó đã có kinh nghiệm với tiếng mẹ đẻ của mình) bắt trước quy trình học của trẻ em (với tiếng mẹ đẻ của chúng) là rất mơ hồ và vô căn cứ. Điều đó còn chưa kể thêm ngữ nhập mà trẻ có được là vô cùng phong phú, đa dạng, có tính lặp lại, liên tục và xuyên suốt. Một bài nói chuyện gần đây của Roy (2011) về “sự ra đời của một từ” cho ta thấy điều này khi mà con trai của anh ấy mất bao nhiều thời gian và tương tác để có thể nói được từ gal–water; hay Steven Pinker, người được tạp chí TIME bình chọn là “1 trong 100 người ảnh hưởng nhất trên thế giới ngày nay”, trong bài nói chuyện với chủ đề “ngôn ngữ học như là cửa sổ để hiểu về não bộ” cũng nhấn mạnh với một người bản ngữ thì trung bình họ cũng cần tới hơn 2 tiếng để học được một từ. Điều này để thấy rằng việc phát triển một ngôn ngữ, cho dù là tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ hai hoặc thứ 3 hay ngoại ngữ là một quá trình rất phức tạp và có sự tương tác của nhiều yếu tố.

Trong môi trường ngoại ngữ khi mà một ngôn ngữ được học như môn học trong các chương trình giáo dục ở các cấp học thì việc thiếu hụt nguồn ngữ nhập là điều dễ thấy. Thời lượng ở trên lớp không thể bù đắp được lượng ngữ liệu người học cần tiếp xúc để có thể đạt được một mức độ giao tiếp nhất định nào đó. Điều này còn tệ hơn khi nguồn ngữ liệu người học có được chủ yếu qua sách vở, băng đĩa hoặc từ giáo viên. Chính vì vậy người học cần được tiếp cận với ngữ liệu đích nhiều hơn thông qua vai trò hỗ trợ của người đứng lớp. Ranh giới giữa hoạt động trong lớp học và ngoài lớp học không quá rõ ràng vì rõ ràng một điều rằng chỉ khi người học thực sự học thì quá trình học mới diễn ra. Việc học này phải diễn ra cả trong và ngoài lớp học.

Để có thể bổ sung thêm nguồn ngữ liệu cho quá trình tiếp thụ ngôn ngữ mới, người học cần chủ động tiếp cận thêm các nguồn bên ngoài, mà chủ yếu thông qua hoạt động nghe-đọc. Tuy nhiên, không phải đối tượng người học nào cũng có thể tiếp cận và xử lý được nguồn ngữ nhập sẵn có bên ngoài. Điều quan trọng là người học phải hiểu được những gì họ đọc, họ nghe ở một chừng mực nhất định nào đó. Rõ ràng vai trò của người giáo viên lúc này cần hơn bao giờ hết. Người giáo viên có vai trò tạo điều kiện thuận lợi giúp người học tiếp cận, như việc làm các bài nghe bài đọc dễ hiểu hơn, dễ tiếp cận hơn thông qua việc dạy từ khóa, dạy những cấu trúc câu có thể gây khó khăn cho người học, hoặc ngay cả việc cung cấp những kiến thức nền để người học tiếp cận tốt hơn, đặc biệt là những kiến thức mang tính đặc thù văn hóa. Nếu như việc dạy-học chỉ dừng lại ở đó thì người học tự hạn chế mình tiếp cận với nguồn ngữ nhập (input). Người học cần chủ động hơn, nghe lại, đọc lại và tự tìm hiểu những nội dung liên quan sao cho vừa sức của mình để từ đó tăng cường thêm cơ hội tiếp cận với ngôn ngữ đích. Giáo viên có thể hỗ trợ nhưng không thể làm thay cho người học. Hơn nữa người học biết rõ họ cần gì và có thể trao đổi với giáo viên để được hỗ trợ sao cho người học có thể tối ưu quá trình học tập của mình.

Như vậy, người học sẽ tiếp cận với ngữ nhập qua hai giác quan chính, thị giác và thính giác hoặc qua kênh hình và kênh chữ, hoặc giản lược hơn chính là qua việc nghe và đọc. Nói thị giác và thính giác vì trong rất nhiều trường hợp người học có thể vừa nghe, vừa đọc hoặc vừa nghe vừa xem. Từ rất sớm, đã có rất nhiều người, nhà giáo dục, các nhà xuất bản chú ý tới nguồn ngữ liệu giản lược thông qua hệ thống sách viết lại (graded readers) và các đài phát thanh dành riêng cho người học (VOA). Với công nghệ hiện nay thì việc tiếp cận với nguồn ngữ nhập có thể hiểu được (comprehensible input) cũng dễ dàng hơn rất nhiều qua những công cụ dịch tự động, phụ đề, tương tác trực tiếp…Nhưng đó mới là nội dung ngữ nhập. Về mặt phương pháp tiếp cận, người học cần lưu ý tới hoạt động nghe-đọc mở rộng. Có rất nhiều nghiên cứu và dự án triển khai thí điểm mô hình đọc mở rộng, thậm chí có cả một quỹ do các nhà nghiên cứu duy trì để thúc đẩy hoạt động này. Đi kèm với đó là hội thảo thường niên và các tạp chí liên quan để hỗ trợ. Những ai quan tâm có thể tìm hiểu thêm ở ER Foundation. Ý tưởng chính của hoạt động đọc mở rộng là người học chủ động tiếp cận các bài đọc phù hợp với trình độ của mình để đọc thường xuyên, chủ yếu cho mục đích giải trí thay vì mục đích học tập, thi cử. Và thông qua quá trình này, người học sẽ có cơ hội tiếp xúc với nguồn ngữ nhập phong phú hơn, đa dạng hơn, đặc biệt là sự lặp lại của những mẫu câu, từ vựng mà người học đã học trước đó. Bên trên tôi đã dẫn một ý của Steven Pinker khi nói rằng ngay đối với 1 người bản ngữ thì trung bình mỗi từ học được, người học cũng cần tới 2 giờ. Đối với một ngôn ngữ mới, có lẽ thời lượng còn phải nhiều hơn. Một số nghiên cứu về từ vựng của người học ngoại ngữ cũng chỉ ra người học cần tiếp xúc 7-12 lần để có thể thực sự học được từ đó [sẽ bổ sung nguồn sau]. Việc tăng cường ngữ nhập không chỉ diễn ra qua hoạt động đọc mà còn qua hoạt động nghe. Nghe đài phát thanh hoặc truyền hình có thể quá sức đối với người học, nhất là người học mới bắt đầu, vậy nên hoạt động nghe mở rộng cũng cần được chú ý nhiều hơn. Nhưng hiện nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu hoặc các dự án điển hình triển khai hoạt động này.

3. Tài nguyên cho hoạt động nghe-đọc mở rộng

3.1. Hoạt động đọc mở rộng (extensive reading)

Khi nói về phương pháp hay cách tiếp cận, điều tối kỵ là cho rằng một phương pháp có thể vạn năng giải quyết được tất cả vấn đề hoặc phù hợp cho tất cả mọi người. Nó giống như việc người ta vẫn cố gắng đi tìm một thứ thần dược để trị bách bệnh hay có thể sống trẻ mãi không già vậy. Tương tự như vậy, hoạt động đọc mở rộng cũng yêu cầu người học có những kiến thức tối thiểu trong ngôn ngữ mới để có thể đọc được, hay nói cách khác họ phải biết đọc. Một người học chưa đọc tiếng Anh bao giờ mà ném cho người đó một cuốn truyện tranh, dù rất đơn giản bằng tiếng Anh cũng là một thách thức rất lớn đối với họ. Vì vậy, người học cần trang bị những kiến thức tối thiểu như lượng từ vựng tối thiểu, những cấu trúc câu đơn giản…để có thể hiểu được các bài đọc đơn giản, được minh họa qua hình ảnh, tranh vẽ. Rất nhiều nhà xuất bản từ lâu đã xuất bản các bộ sách cho người học ngoại ngữ, phân loại theo các mức độ từ đơn giản đến phức tạp hơn, chủ yếu dựa vào lượng từ vựng người học có được. Đây là những cuốn sách được viết lại từ những truyện ngắn, tiểu thuyết nổi tiếng, nhưng với ngôn ngữ đơn giản dù vẫn giữ nguyên cốt truyện. Đối với người học ở trình độ cao hơn, họ có thể tiếp cận những tài liệu khó hơn, miễn sao mà họ đọc không bị gián đoạn. Nghiên cứu chỉ ra rằng người học cần biết 98% lượng từ vựng để có thể đọc mà không bị gián đoạn trong việc hiểu nội dung (Nation, 2000). Các bộ sách viết lại người học có thể tiếp cận qua thư viện ở trường (VD. Tủ Sách NVQ ở KNN, ĐHTN & Bookworm’s Conner chính là một trong những nỗ lực để đưa hoạt động đọc mở rộng vào chương trình) hoặc qua các hệ thống thư viện đọc mở rộng online như: er-central.com hoặc tin ngắn như www.simpleenglishnews.com; Ngoài ra những tạp chí song ngữ, những truyện thiếu nhi…đều có thể là nguồn tài liệu có thể rất hữu ích. Điều quan trọng là những ngữ liệu này phải phù hợp với trình độ, hứng thú và mối quan tâm của mỗi người học. Chính người học biết rõ mình cần gì nhất.

3.2. Hoạt động nghe mở rộng

Ngữ nhập rất quan trọng cho việc phát triển kỹ năng nghe và ngôn ngữ nói (oral/khẩu ngữ) chính là việc việc tiếp cận với những tài liệu nghe mà người học có thể hiểu được. Lâu nay, việc nghe chủ yếu diễn ra trong phạm vi lớp học và người học ít khi chủ động nghe thêm bên ngoài, có chăng cũng chủ yếu làm các bài tập được giáo viên yêu cầu. Giống như họat động đọc mở rộng, nghe mở rộng cũng do chính người học lựa chọn những nội dung sao cho phù hợp với trình độ, hứng thú, mối quan tâm của mình. Nếu gặp khó khăn, người học hoàn toàn có thể nhờ giáo viên tư vấn, và đó cũng mới là vai trò chính của người giáo viên hiện đại.

Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy một số nguồn tài nguyên rất hữu ích mà người học có thể khai thác cho hoạt động nghe mở rộng.

a. Podcast: hệ thống các bài nghe được cập nhật thường xuyên như một dạng blog nhưng ở dạng âm thanh với rất nhiều chủ đề đa dạng. Người học có thể đăng ký theo dõi và nghe thường xuyên về những chủ đề mà họ quan tâm. Đối với người học tiếng Anh, ESLpod cho tới thời điểm này vẫn là điểm dừng số 1 cho đa số người học trên thế giới. Người học được học miễn phí và có cơ hội hiểu thêm về văn hóa Mỹ. Người học miễn phí truy cập, nhưng có thể phải trả thêm phí nếu muốn truy cập thêm phần chữ (transcript). Nhưng ESLpod mới chỉ là một tỏng vô số những hệ podcast khác nhau được đăng tải thường xuyên qua iTune, một phần mềm Apple. Qua iTune, người học có thể lựa chọn rất nhiều các kênh khác nhau, gồm cả những kênh học tiếng và những kênh giáo dục, giải trí khác. Hướng dẫn sử dụng iTune cho hoạt động nghe mở rộng tôi sẽ viết hoặc làm video HD trong một bài khác.

b. Website: có rất nhiều website hỗ trợ người học nghe mở rộng, www.elllo_Org là một ví dụ điển hình. Ngoài ra, người học còn có thể nghe xem các video trên youtube hoặc các kênh tương tự, nhưng chú ý vào những hoạt động nghe. Trước đây tôi có tập hợp vài địa chỉ tại đây: Google Sites: Sign-in (https://sites.google.com/site/call4cec/computer-tools/videos)

c. TED Talks cũng là một địa chỉ tôi yêu thích vì thông qua những bài nói chuyện, chúng ta không chỉ nghe thêm tiếng Anh mà còn học thêm được rất nhiều những kiến thức khác. Thú vị hơn nữa là TED có cộng tác ở khắp nơi trên thế giới dịch phụ đề ra các ngôn ngữ khác nhau và còn có các tổ chức địa phương triển khai mô hình và chia sẻ lên TEDx. VD một bài nói chuyện gần đây của Ms. Thao Griffths, nói chuyện về một chủ đề rất nhiều ý nghĩa và chuyển tới thế hệ trẻ một thông điệp vô cùng thú vị: Fighting in the past, fighting for the future;

Tóm lại

Có rất nhiều yếu tố liên quan tới quá trình học/tiếp thụ một ngôn ngữ mới, đặc biệt khi ngôn ngữ đó có vai trò như một ngoại ngữ. Ngữ nhập (input) là điều kiện cần (nhưng chưa đủ) để người học có thể phát triển năng lực ngôn ngữ của mình. Chương trình học ngoại ngữ chính quy thường không đủ để người học có thể tiếp xúc với nhiều nguồn ngữ liệu phong phú. Do vậy cả người dạy và người học cần lưu tâm tới sự thiếu hụt này để có sự bù đắp sao cho phù hợp. Trong bài viết này, tôi tổng thuật qua về khái niệm ngữ nhập và vị trí của nó trong quá trình phát triển một ngoại ngữ, sau đó tôi trình bày hai hoạt động chính để tăng cường ngữ nhập thông qua nghe-đọc mở rộng (extensive listening/reading). Cuối cùng, tôi gợi ý một số nguồn tài nguyên tham khảo để người dạy-người học có thể triển khai trong thực tế. Trong bài viết tiếp theo, tôi sẽ chia sẻ cách triển khai cụ thể qua những ví dụ cụ thể. Bài viết này giúp người đọc có bức tranh chung về hai hoạt động này và mối liên hệ tới ngữ nhập (một trong những điều kiện cần của thụ đắc ngôn ngữ) trước khi thực hiện những hoạt động cụ thể.
View attachment 2484375
Đọc thấy hay nên chia sẻ thôi.
em yêu bác như yêu Taylor
 
Mình chia sẻ cách mình học speaking:
  • Đầu tiên bác tìm 1 quyển sách dạy speaking, quyển nào cũng được miễn là có file pdf sách với audio public sẵn trên mạng (vì đỡ tiền mua sách vở)
  • Sau thì bác cứ học theo hướng dẫn từng chương trong sách, thường thì mỗi chương sẽ tập trung vào 1 chủ đề cụ thể
  • Đến đây phần quan trọng, bác dùng app cắt audio của bài học ngắt thành những đoạn câu nhỏ
  • Xong bác tìm 1 app tạo flashcards, em thì đang dùng Anki (cá nhân em thấy nó dễ custom theo ý mình, bác lên youtube check cách xài)
  • Bác tạo thẻ flashcard có những nội dung là file audio đã cắt, phần script của đoạn đó, dịch nghĩa hoặc những cấu trúc cần note lại
  • Vậy là bước chuẩn bị xong xuôi, bây giờ đến phần học: khi mà lật từng thẻ, bác cố gắng nói theo mẫu câu đã cắt trên audio, cố gắng thuộc luôn càng tốt
  • Cứ làm như vậy đến hết bộ thẻ, thẻ nào mà thuộc rồi thì bỏ qua, tập trung vào mấy mẫu câu mới
Mấu chốt của việc giao tiếp là phản xạ thôi, nên theo cách này bác cứ tập theo audio, sẽ bắt chước được cách phát âm từ vựng, cũng như nhớ được những mẫu câu giao tiếp mà cuốn sách muốn truyền tải
 
Mình cũng luyện IPA xong rồi, nói chuyện với AI được nhưng cứ thực tế mỗi lần phải sử dụng tiếng anh thì sợ không dám nói gì thì phải làm sao :)
 
Back
Top