kiến thức Những cuốn sách hay thanh niên nên đọc.

Ở đây có bác nào đọc cuốn Bức chân dung Dorian Gray chưa ạ ? Cho mình hỏi nên đọc bản của dịch giả nào ạ.
51-ZD0RcRtL._AC_SY780_.jpg
 
⁠có ai như tôi đọc xong tác phẩm kinh điển rồi thì không bao giờ coi phim của nó không? chả phải trọng sách, khinh điện ảnh hay gì, tức là tôi cũng coi sơ một số đoạn cắt từ movie clip trên youtube, cũng quan tâm tối thiểu về những nhân vật không mặt mũi trong sách, nay lên điện ảnh được cast vai thế nào
⁠nhưng tôi cảm giác như là đọc sách xong coi phim là 1 trải nghiệm tốn thời gian, có thể nó không thừa thãi hay phí phạm vì nhiều phim cũng tuốt lại nội dung khác biệt kha khá so với nguyên tác (thậm chí có trường hợp hay hơn hẳn sách) nhưng chủ trương tận dụng thời gian của tôi vẫn là thà coi một bộ phim mà không chuyển thể từ sách hoặc chưa từng đọc qua sách nguyên tác, còn hơn là coi lại 1 nội dung đến 2 lần bằng phim và sách
⁠p.s: nói thế chứ trước cũng từng coi phim lẫn đọc sách nhiều rồi, nay thấy không ăn thua vì lúc coi phim cũng ghét và đọc sách xong cũng chả khá hơn nên tôi quyết định thay đổi kế ⁠hoạch


View attachment 634751
Thực ra về mặt cá nhân,mỗ cho là đọc sách xong mà xem phim thì thật xúc phạm tác giả <áp dụng cho các tác phẩm lớn>. Cái hay lớn nhất của sách tạo ra sự khác biệt lớn giữa các tác giả là khả năng miêu tả, tức kể lại câu chuyện bằng lời. Giữa những người đọc có thể tưởng tượng ra nhân vật khác nhau dựa vào những đường nét chính. Miêu tả về nhân vật như một bức phác thảo, trải nghiệm và hiểu biết của người đọc sẽ tô thêm những mảng màu trên đó. Nên cùng một văn bản có thể có những cái khác biệt về góc nhìn. Góc nhìn trong các tiểu thuyết khơi gợi về trí tưởng tượng nhưng giới hạn về ý tưởng truyền tải.

Điện ảnh không thể phát huy hoàn toàn vũ khí ngôn từ như tiểu thuyết thêm vào đó việc theo sát nguyên tác khó gây thu hút cho người xem đại chúng, nên phần lớn các tiểu thuyết nổi tiếng khi chuyển thể đều bị xa rời ý tưởng chính và sa đà vào các yếu tố giật gân. Những sản phẩm chuyển thể hiếm hoi như "Cuốn theo chiều gió" nay gần như tuyệt chủng với thế hệ cuả những franchise,sequel,remakes,reboots... Thế hệ đại chúng của những KFC,McDonald thì đòi hỏi những trải nghiệm sâu sắc là quá khó khăn. Đơn giản là không còn hợp thời.

Như cuốn Great Gatsby lúc mới xuất bản trở lại ở VN năm 2009 bán ko ai mua. Mỗ nhớ Nhã Nam nó phải xả kho 15-20k/cuốn gì đó mà ko hấp dẫn nổi người đọc. Nhưng sau năm 2013-2014 khi bộ phim chuyển thể được phát hành thì bán như tôm tươi, còn được dịch giả khác dịch và quảng cáo lại. Có thể kể hàng đống ví dụ trong đó phiên bản điện ảnh vượt qua giá trị ảnh hưởng của tác phẩm gốc. Đây mới là nơi thể hiện sức sáng tạo của điện ảnh hể hiện rõ, khi khuôn sáo của các tác phẩm gốc bị/được lược bỏ mà không gây tranh cãi trong dư luận, đồng thời thổi làn gió mới cho các tác phẩm gốc. Việc rất khó thực hiện với các tác phẩm lớn khi thiên kiến của người đọc khiến việc cởi mở cho các góc nhìn mới là không dễ truyền tải.

Điện ảnh chuyển thể đôi lúc tạo ra các sức hút như vậy khi khơi gợi lại những tác phẩm tưởng như quên lãng. Tuy nhiên hệ quả đi kèm là độc giả xem phim rồi mới đọc sách và góc nhìn lúc này bị thiên lệch bởi góc nhìn điện ảnh. Gía trị của tiểu thuyết lúc này lại gía trị phái sinh so với tác phẩm điện ảnh (trong khi đúng ra là phải ngược lại). Điều này góp phần giải thích câu hỏi mà anh Tinker vẫn hay nhắc tới về chuyện "giới trẻ" thường xuyên không thẩm được các tác phẩm lớn. Mà hay đề cao các tác phẩm bị cho là khá hời hợt.

Nên các tác phẩm như "Grand Budapest Hotel" tạo sức hút lớn với các nhà phê bình là vậy. Một bộ phim mẫu mực về truyền tải ý tưởng. Bộ phim cơ bản dựa trên ý tưởng một phân đoạn của "Thế giới những ngày qua" nhưng người xem gần như không nhìn ra. Những người yêu thích Zweig và đã từng đọc các tác phẩm trước đây sẽ thấy các nhân vật, các phân đoạn tác phẩm phảng phất rải rác trong cả bộ phim. Nhưng hoàn toàn không gây thiên kiến khi người xem phim quay lại đọc các tác phẩm gốc.
 
sách nào về tư duy, cách suy nghĩ hay chỉ e với mấy thím, mình khá thụ động, chỉ đâu đánh đó nên kiếm cuốn sách đọc mở mang đầu óc
 
🕮 Chân dung của Dorian Gray (*) ― Oscar Wilde ― NHAM HOA dịch
Hội chứng Dorian Gray được đặt theo tên nhân vật chính trong Chân dung của Dorian Gray, về một chàng trai trẻ sẵn sàng bán linh hồn để giữ mãi thanh xuân. Những người mắc hội chứng này bị ám ảnh bởi vẻ ngoài hoàn hảo, từ đó sợ lão hóa. Họ tìm mọi cách để giữ mãi thanh xuân, chẳng hạn như lạm dụng mỹ phẩm.​
 
không rõ đây là bot chạy máy hay bot chạy cơm nhỉ. ai hỏi sách gì là có sách đấy + review
Có cả chế độ Auto lẫn Manual đấy, thỉnh thoáng post bị trôi thì có chế độ Delete rồi Re-Up.
 
Last edited:
Em 2 năm trở lại đây liên tục đọc sách tài chính, đầu tư. Có lẽ do mình đang hứng thú và tham gia nó nên có thể đọc liên tục 1 chủ đề. Tuy nhiên, đôi lúc cuối tuần, khi mà không phải nghĩ gì đến thị trường, tình hình thế giới thì lại cảm thấy cần đổi gió. Mỗi lúc như thế em lại lôi cuốn "Suối Nguồn" ra đọc.

Em đã đọc nhiều các chia sẻ của các bác trên này về nó rồi, từ chê ít ít đến chê thậm tệ. Dẫu thế, em vẫn thấy nó đáng đọc với bản thân mình. Có lẽ thuộc về bản tính hẹp hòi hoặc ích kỷ chăng ? Dù là gì đi nữa, em thích nhìn các nhân vật làm việc mà họ giỏi nhất. Howard Roark làm việc như kẻ cuồng tín. Peter Keating luôn biết cách nhét mình vào các tình huống xã hội. Ellsworth Toohey thao túng cả xã hội hư cấu. Mỗi nhân vật mặc dù chỉ là hư cấu, nhưng em lại như nhìn thấy chúng trong thực tại. Vài dòng chia sẻ lúc xếp hàng test covid tại SG.
 
Em 2 năm trở lại đây liên tục đọc sách tài chính, đầu tư. Có lẽ do mình đang hứng thú và tham gia nó nên có thể đọc liên tục 1 chủ đề. Tuy nhiên, đôi lúc cuối tuần, khi mà không phải nghĩ gì đến thị trường, tình hình thế giới thì lại cảm thấy cần đổi gió. Mỗi lúc như thế em lại lôi cuốn "Suối Nguồn" ra đọc.

Em đã đọc nhiều các chia sẻ của các bác trên này về nó rồi, từ chê ít ít đến chê thậm tệ. Dẫu thế, em vẫn thấy nó đáng đọc với bản thân mình. Có lẽ thuộc về bản tính hẹp hòi hoặc ích kỷ chăng ? Dù là gì đi nữa, em thích nhìn các nhân vật làm việc mà họ giỏi nhất. Howard Roark làm việc như kẻ cuồng tín. Peter Keating luôn biết cách nhét mình vào các tình huống xã hội. Ellsworth Toohey thao túng cả xã hội hư cấu. Mỗi nhân vật mặc dù chỉ là hư cấu, nhưng em lại như nhìn thấy chúng trong thực tại. Vài dòng chia sẻ lúc xếp hàng test covid tại SG.

Mỗi khi nói về Suối Nguồn, một số người nói như kiểu 4 arc mà chỉ có mỗi thằng Howard Roark gánh hết vậy, để dễ lên án cái chủ nghĩa cá thể chăng? Trong khi mỗi arc về sau thể hiện mỗi bức chân dung về mỗi nhân vật, về một tư tưởng khác thì không thấy dám bàn tới. :confuse::confuse:
Còn về nhân vật trong tiểu thuyết thì vì sao nó mang tính chân thực về đời sống cao đến vậy? Dù hình thể là hư cấu nhưng cách phát triển, cách lấy ý tưởng đều năm đâu đó ngoài đời, đều qua những con người mà bà tác giả từng gặp gỡ hoặc nghe kể về để lấy ý tưởng đó vào truyện mình:):)
 
Last edited:
Mỗi khi nói về Suối Nguồn, một số người nói như kiểu 4 arc mà chỉ có mỗi thằng Howard Roark gánh hết vậy, để dễ lên án cái chủ nghĩa cá thể chăng? Trong khi mỗi act về sau thể hiện mỗi bức chân dung về mỗi nhân vật, về một tư tưởng khác thì không thấy dám bàn tới. :confuse::confuse:
Còn về nhân vật trong tiểu thuyết thì vì sao nó mang tính chân thực về đời sống cao đến vậy? Dù hình thể là hư cấu nhưng cách phát triển, cách lấy ý tưởng đều năm đâu đó ngoài đời, đều qua những con người mà bà tác giả từng gặp gỡ hoặc nghe kể về để lấy ý tưởng đó vào truyện mình:):)
Thật ra thì với lần đọc đầu tiên, thứ ấn tượng nhất với em vẫn là nhân vật Roark, 1 dạng anh hùng cứu thế giới. Và các nhân vật còn lại là các phiên bản phản diện.

Tuy nhiên, khi trải nghiệm cuộc sống của em phong phú hơn, rồi sau đó đọc lại mới thấy được các bức tranh giá trị khác.

Cám ơn bác đã reply.
 
Nhân dịp đề tài Cuba đang hot mấy ngày gần đây, xin giới thiệu bản tóm tắt được google dịch của quyển này:

Vì sao có mối quan hệ Mỹ - Cuba như hiện nay...các thím đọc và góp ý thêm với nhé

1626237632119.png


Table of Contents
#1. Quan hệ Mỹ-Cuba hiện tại bắt đầu từ một cuộc cách mạng vào năm 1959.
#2. Vào cuối nhiệm kỳ của Eisenhower, các cuộc đàm phán ngoại giao chính thức không còn là một lựa chọn
#3. Mặc dù leo thang các hoạt động bí mật nhằm ám sát Castro, John F. Kennedy vẫn duy trì các cuộc đàm phán hòa bình.
#4. Hy vọng bình thường hóa đã bị đình trệ bởi Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, nhưng các cuộc đàm phán về tù nhân vẫn tiếp tục.
#5. James Donovan và một phóng viên tin tức đầy tham vọng đã giữ quá trình đàm phán tiếp tục.
#6. Vụ ám sát John F. Kennedy và chính quyền Johnson sau đó đã làm gián đoạn các cuộc đàm phán đang diễn ra.
#7. Richard Nixon từ chối điện đàm với Cuba; Henry Kissinger thì lại khác.
#8. Henry Kissinger đã cố gắng giữ cho các cuộc điện đàm tiếp tục diễn ra trong thời kỳ khó khăn khi Gerald Ford làm Tổng thống.
#9. Tổng thống Jimmy Carter đã cố gắng nối lại điện đàm với Cuba, nhưng một cuộc khủng hoảng khác đã kết thúc nhiệm kỳ của Carter.
# 10. Ronald Reagan và George HW Bush chỉ điện đàm với Cuba khi bị ép buộc.
#11. Đối với Bill Clinton, mục tiêu chính trị quyết định các giao dịch với Cuba.
#12: Sau một sự cố chết người, Clinton kết thúc nhiệm kỳ tổng thống với mối quan hệ được cải thiện giữa Hoa Kỳ và Cuba
#13. George W. Bush tiếp tục gây áp lực lên Cuba trong khi Obama thúc đẩy một kế hoạch khác.
# 14. Trong khi nhiệm kỳ đầu tiên của Obama không có nhiều cải thiện về quan hệ, nhiệm kỳ thứ hai của ông đã bắt đầu với những dấu hiệu tích cực.

Back Channel to Cuba: The Hidden History of Negotiations Between Washington and HavanaĐiện đàm với Cuba: Lịch sử ẩn giấu của các cuộc điện đàm giữa Washington và Havana
William M. LeoGrande & Peter KornbluhWilliam M. LeoGrande & Peter Kornbluh
With unprecedented access to declassified documents, Back Channel to Cuba (2014) reveals the long and bumpy road of diplomatic relations between the United States and Cuba. Find out how 50 years of unsuccessful foreign policy have kept Cuba and the United States at odds despite the efforts of secret, back-channel negotiations that have been taking place since the Eisenhower administration.Với khả năng tiếp cận các tài liệu bí mật mật chưa từng có, Điện đàm với Cuba (2014) hé lộ con đường dài và gập ghềnh của mối quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Cuba. Hãy tìm hiểu xem 50 năm chính sách đối ngoại không thành công đã khiến Cuba và Hoa Kỳ đối đầu như thế nào bất chấp những nỗ lực điện đàm bí mật đã diễn ra sau đó, kể từ thời chính quyền Eisenhower.
Most people have had an unsavory neighbor. But the enmity between the United States and Cuba, just 90 miles off the Florida coast, takes neighborly ill will to a whole other level. Over the last 50 years, their relationship has been cool at best and boiling toward war at worst. All the while, however, through all this turmoil, negotiations between the two countries have continued.Hầu hết mọi người đều có một người hàng xóm không tốt. Nhưng tình trạng thù địch giữa Mỹ và Cuba, chỉ cách nhau 90 dặm ngoài khơi bờ biển Florida, ở một cấp độ hoàn toàn khác. Trong hơn 50 năm qua, mối quan hệ của họ lúc nào cũng lạnh lẽo và có nguy cơ tiến tới chiến tranh ở mức tồi tệ nhất. Tuy nhiên, trong suốt thời gian bất ổn này, các buổi điện đàm giữa hai nước vẫn tiếp tục.
They’ve taken different forms during different US administrations. Sometimes negotiations took the form of direct discussions between the US president and Cuba’s president, Fidel Castro; more often than not, though, they’ve occurred through different back channels. So, let’s go back in history to see how it all started and what has happened since.Họ đã thực hiện các hình thức điện đàm khác nhau qua từng thời kỳ của Hoa Kỳ. Đôi khi các buổi điện đàm diễn ra dưới hình thức thảo luận trực tiếp giữa Tổng thống Mỹ và Chủ tịch Cuba, Fidel Castro; Tuy nhiên, thường xuyên hơn là thông qua các kênh nói chuyện khác. Vì vậy, chúng ta hãy quay ngược lại lịch sử để xem tất cả bắt đầu và tiến triển như thế nào.
In this summary of Back Channel to Cuba by William M. LeoGrande & Peter Kornbluh, you’ll find outTrong phần tóm tắt cuốn sách của William M. LeoGrande & Peter Kornbluh, bạn sẽ có thông tin về
how President John F. Kennedy used an ace negotiator to sustain relations with Cuba;Tổng thống John F. Kennedy đã sử dụng một nhà đàm phán xuất sắc như thế nào để duy trì quan hệ với Cuba;
what the Freedom Flotilla is and how it affected the Carter administration; andFreedom Flotilla là gì và nó ảnh hưởng như thế nào đến chính quyền Carter;
how one electorally important state influenced the Cuba policy during Clinton’s presidency.Làm thế nào một quốc gia quan trọng về bầu cử đã ảnh hưởng đến chính sách Cuba trong nhiệm kỳ tổng thống của Clinton.

#1. Quan hệ Mỹ-Cuba hiện tại bắt đầu từ một cuộc cách mạng vào năm 1959.​

Back Channel to Cuba Key Idea #1: Modern US-Cuban relations began with a revolution in 1959.Kênh Quay lại Cuba Ý tưởng chính # 1: Mối quan hệ Mỹ-Cuba hiện đại bắt đầu từ một cuộc cách mạng vào năm 1959.
To understand the troubled relationship between Cuba and the United States, we have to go back about 50 years.Để hiểu mối quan hệ rắc rối giữa Cuba và Hoa Kỳ, chúng ta phải quay ngược lại khoảng 50 năm.
On January 1, 1959, a revolution, led by Fidel Castro and Che Guevera, sent the previous ruler, Fulgencio Batista, into exile. This event immediately put the United States on edge.Vào ngày 1 tháng 1 năm 1959, một cuộc cách mạng, do Fidel Castro và Che Guevera lãnh đạo, đã đưa người cai trị trước đó, Fulgencio Batista, đi lưu vong. Sự kiện này ngay lập tức đưa Hoa Kỳ vào thế khó.
The US government had helped Batista take power in 1933, and even though the United States knew that he’d become a violent and corrupt ruler, he’d remained supportive of US financial interests in Cuba.Chính phủ Hoa Kỳ đã giúp Batista nắm quyền vào năm 1933, và mặc dù Hoa Kỳ biết rằng ông sẽ trở thành một nhà cai trị bạo lực và tham nhũng, ông vẫn là người ủng hộ các lợi ích tài chính của Hoa Kỳ ở Cuba.
So, while Cubans cheered and welcomed Castro’s new government, the United States wasn’t sure what to make of this brash and unpredictable leader who had just overthrown their ally.Vì vậy, trong khi người dân Cuba hoan hô và hoan nghênh chính phủ mới của Castro, Hoa Kỳ không chắc chắn sẽ làm gì với nhà lãnh đạo tồi tệ và khó đoán này, người vừa lật đổ đồng minh của họ.
But, by all accounts, both Castro and the United States wanted to start off on good terms. In April of 1959, Castro embarked on a “goodwill tour” of the United States, where he greeted the press and met with US government officials.Tuy nhiên, xét trên tất cả các mặt, cả Castro và Hoa Kỳ đều muốn bắt đầu một cách tốt đẹp. Vào tháng 4 năm 1959, Castro bắt đầu một “chuyến công du thiện chí” đến Hoa Kỳ, nơi ông chào báo chí và gặp gỡ các quan chức chính phủ Hoa Kỳ.
The United States was ready to offer Cuba financial assistance, but, during his trip, Castro refused to ask anyone for money. He was intent on creating an independent Cuba, a nation that would govern itself and not be controlled by US interests.Hoa Kỳ đã sẵn sàng cung cấp hỗ trợ tài chính cho Cuba, nhưng trong chuyến đi của mình, Castro đã từ chối xin tiền của bất kỳ ai. Ông ấy có ý định tạo ra một Cuba độc lập, một quốc gia sẽ tự cai trị và không bị kiểm soát bởi các lợi ích của Hoa Kỳ.
Things began going sour when US President Dwight D. Eisenhower publicly snubbed Castro by going on a golfing trip during his visit. Castro was insulted that Eisenhower didn’t consider the new Cuban leader worthy of his time.Mọi chuyện bắt đầu trở nên tồi tệ khi Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower công khai chọc tức Castro bằng cách đi chơi gôn trong chuyến thăm của ông. Castro đã bị xúc phạm rằng Eisenhower không coi nhà lãnh đạo mới của Cuba xứng đáng với thời gian của mình.
Relations became more strained upon Castro’s return to Cuba.Các mối quan hệ trở nên căng thẳng hơn khi Castro trở lại Cuba.
On May 17th, 1959, Castro began a socialist platform and nationalized all Cuban estates over 1,000 acres, upsetting US investors who owned many of Cuba’s large plantations. Soon afterward, Castro decided to consolidate the top levels of his government by kicking out the politically moderate members in favor of radical and communist-minded leaders.Vào ngày 17 tháng 5 năm 1959, Castro bắt đầu một nền tảng xã hội chủ nghĩa và quốc hữu hóa tất cả các bất động sản của Cuba trên 1.000 mẫu Anh, khiến các nhà đầu tư Hoa Kỳ sở hữu nhiều đồn điền lớn của Cuba bị ảnh hưởng. Ngay sau đó, Castro quyết định củng cố các vị trí cấp cao nhất trong chính phủ của mình bằng cách loại bỏ các thành viên ôn hòa về chính trị để ủng hộ các nhà lãnh đạo cấp tiến và có tư tưởng cộng sản.
By November of 1959, the United States had seen enough, and the CIA began initiating secret programs, looking for ways to overthrow Castro’s government.Đến tháng 11 năm 1959, Hoa Kỳ đã thấy đủ, và CIA bắt đầu các chương trình bí mật, tìm cách lật đổ chính phủ của Castro.
Edit

#2. Vào cuối nhiệm kỳ của Eisenhower, các cuộc đàm phán ngoại giao chính thức không còn là một lựa chọn​

Back Channel to Cuba Key Idea #2: By the end of the Eisenhower administration, formal diplomatic talks were no longer an option.Kênh Quay lại Cuba Ý tưởng chính # 2: Vào cuối nhiệm kỳ Eisenhower, các cuộc đàm phán ngoại giao chính thức không còn là một lựa chọn.
As Fidel Castro put together his new government, tensions between Cuba and the United States were already high, and things only got worse.Khi Fidel Castro thành lập chính phủ mới của mình, căng thẳng giữa Cuba và Hoa Kỳ đã ở mức cao và mọi thứ càng lúc trở nên tồi tệ hơn.
In February of 1960, Cuba and the Soviet Union agreed to a $100 million trade agreement, forming a relationship that would cause friction between Cuba and the United States for decades to come.Vào tháng 2 năm 1960, Cuba và Liên Xô đã đồng ý một thỏa thuận thương mại trị giá 100 triệu đô la, hình thành một mối quan hệ có thể gây xích mích giữa Cuba và Hoa Kỳ trong nhiều thập kỷ tới.
Still, Philip W. Bonsal, the ambassador at Cuba’s US embassy, pleaded with Eisenhower, asking him to be patient with Castro and give the new Cuban government time to settle in.Tuy nhiên, Philip W. Bonsal, đại sứ Mỹ ở Cuba, đã cầu xin Eisenhower, yêu cầu ông kiên nhẫn với Castro và cho chính phủ Cuba mới thời gian để ổn định.
But the tensions reached a snapping point on March 4, 1960, when a Belgian freighter called La Coubre was unloading munitions in Havana’s harbor and exploded suddenly, killing 15 people and wounding 200 more.Nhưng căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào ngày 4 tháng 3 năm 1960, khi một tàu chở hàng của Bỉ có tên là La Coubre đang dỡ đạn tại cảng Havana và bất ngờ phát nổ, khiến 15 người thiệt mạng và 200 người khác bị thương.
Castro was convinced it was the work of the CIA and publicly accused the United States of sabotaging the freighter. The United States denied any involvement; nonetheless, any hopes of reconciliation were all but gone.Castro tin rằng đó là công việc của CIA và công khai cáo buộc Hoa Kỳ đã phá hoại tàu chở hàng. Hoa Kỳ phủ nhận bất kỳ sự liên quan nào; Tuy nhiên, mọi hy vọng hòa giải đã tan thành mây khói.
On March 7, Eisenhower signed a document to begin covert operations in Cuba to overthrow Castro.Vào ngày 7 tháng 3, Eisenhower ký một văn bản bắt đầu hoạt động bí mật ở Cuba nhằm lật đổ Castro.
Bonsal opposed the idea. He knew the people of Cuba loved Castro and that the United States would be wasting its time trying to create an opposing party. But US actions against Cuba only increased from then on.Bonsal phản đối ý tưởng này. Ông biết người dân Cuba yêu Castro và Hoa Kỳ sẽ lãng phí thời gian để tạo ra một đảng đối lập. Nhưng các hành động của Hoa Kỳ chống lại Cuba không ngừng gia tăng lên kể từ thời điểm đó.
First, they put financial pressure on Cuba by refusing to buy sugar, one of Cuba’s biggest exports, to which Castro responded by nationalizing all US-owned land and businesses.Đầu tiên, họ gây áp lực tài chính lên Cuba bằng cách từ chối mua đường, một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Cuba, mà Castro đã đáp trả bằng cách quốc hữu hóa tất cả đất đai và doanh nghiệp thuộc sở hữu của Mỹ.
Then, Eisenhower further escalated the situation by cutting off all exports to Cuba except food and medicine.Sau đó, Eisenhower tiếp tục leo thang tình hình bằng cách cấm vận tất cả các mặt hàng xuất khẩu sang Cuba, ngoại trừ thực phẩm và thuốc men.
At this point Russia stepped in and offered to buy Cuba’s sugar, a move that led Castro and Nikita Khrushchev, Premier of the Soviet Union, to hug one another at a United Nations meeting.Tại thời điểm này, Nga đã bước vào và đề nghị mua đường của Cuba, một động thái khiến Castro và Nikita Khrushchev, Thủ hiến Liên Xô, ôm nhau tại một cuộc họp của Liên Hợp Quốc.
For the United States, this was the final straw. On Jan 4, 1961, as the Eisenhower administration came to a close, they officially shut down the US embassy in Cuba.Đối với Hoa Kỳ, đây là giọt nước cuối cùng. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1961, khi chính quyền Eisenhower kết thúc, họ chính thức đóng cửa Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Cuba.
Edit

#3. Mặc dù leo thang các hoạt động bí mật nhằm ám sát Castro, John F. Kennedy vẫn duy trì các cuộc đàm phán hòa bình.​

Back Channel to Cuba Key Idea #3: Despite escalating secret operations to take down Castro, John F. Kennedy maintained peaceful negotiations.Kênh Quay lại Cuba Ý tưởng chính # 3: Mặc dù leo thang các hoạt động bí mật nhằm ám sát Castro, John F. Kennedy vẫn duy trì các cuộc đàm phán hòa bình.
As John F. Kennedy stepped into the White House, Cuba was proving that it could be both politically independent and economically prosperous.Khi John F. Kennedy bước chân vào Nhà Trắng, Cuba đang chứng minh rằng nước này có thể độc lập về chính trị và thịnh vượng về kinh tế.
But the height of the Cold War was close at hand, and the United States was still intent on trying to overthrow Fidel Castro. Cuba’s troubling relationship with the Soviet Union was only made worse by the fact that, prior to the revolution, there had been more US investments in Cuba than anywhere else in Latin America.Nhưng đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh đã cận kề, và Hoa Kỳ vẫn có ý định tìm cách lật đổ Fidel Castro. Mối quan hệ rắc rối của Cuba với Liên Xô chỉ trở nên tồi tệ hơn bởi thực tế là, trước cuộc cách mạng, có nhiều khoản đầu tư của Mỹ vào Cuba hơn bất kỳ nơi nào khác ở Mỹ Latinh.
So, on April 17, 1961, Kennedy green-lighted the Bay of Pigs Invasion.Vì vậy, vào ngày 17 tháng 4 năm 1961, Kennedy đã bật đèn xanh cho Cuộc xâm lược Vịnh Con lợn.
This was a covert operation involving 1,500 counter-revolutionary Cuban exiles who were trained by the CIA and sent into Cuba to overthrow the Castro government.Đây là một hoạt động bí mật liên quan đến 1.500 người Cuba phản cách mạng lưu vong được CIA huấn luyện và đưa vào Cuba để lật đổ chính phủ Castro.
And it was a disaster. Castro commanded his army to stop the invasion and, within three days, captured 1,200 prisoners.Và đó là một thảm họa. Castro chỉ huy quân đội của mình ngăn chặn cuộc xâm lược và trong vòng ba ngày, đã bắt được 1.200 tù binh.
Defeated and humiliated, Kennedy publicly responded by putting a full economic embargo on Cuba. In secret talks with his staff, however, he began exploring all possible options for dealing with Cuba, both deadly and friendly.Bị đánh bại và bị sỉ nhục, Kennedy đã công khai đáp trả bằng cách đặt một lệnh cấm vận kinh tế hoàn toàn đối với Cuba. Tuy nhiên, trong các cuộc nói chuyện bí mật với các nhân viên của mình, ông bắt đầu khám phá tất cả các phương án có thể có để đối phó với Cuba, cả nguy hiểm và thân thiện.
Eventually, President Kennedy, with the help of his brother Robert, who was attorney general, launched Operation Mongoose, a plan to “isolate and impoverish” Cuba in order to build an uprising against Castro’s regime.Cuối cùng, Tổng thống Kennedy, với sự giúp đỡ của anh trai Robert, người đang là tổng chưởng lý, đã phát động Chiến dịch Mongoose, một kế hoạch “cô lập và làm nghèo” Cuba nhằm xây dựng một cuộc nổi dậy chống lại chế độ của Castro.
Kennedy approved orders for the CIA to come up with possible assassination plots, even entertaining the idea of poisoning Castro’s cigars.Kennedy chấp thuận lệnh cho CIA đưa ra các âm mưu ám sát có thể xảy ra, thậm chí còn đưa ra ý tưởng đầu độc xì gà của Castro.
But Kennedy also told his administration to come up with a “secret rapprochement track,” a way to negotiate with Castro and possibly bring him back to the side of the United States.Nhưng Kennedy cũng nói với chính quyền của mình để đưa ra một “đường lối quan hệ hợp tác bí mật”, một cách để đàm phán với Castro và có thể đưa ông ta trở lại phe của Hoa Kỳ.
The first sign of such secret negotiations came from an unlikely source: Che Guevara.Dấu hiệu đầu tiên của các cuộc đàm phán bí mật như vậy đến từ một nguồn không chắc chắn: Che Guevara.
On August 18, 1961, the first meeting of the “Alliance for Progress” was underway in Uruguay. In attendance was Che Guevara and US White House aide Richard Goodwin.Vào ngày 18 tháng 8 năm 1961, cuộc họp đầu tiên của “Liên minh vì sự tiến bộ” đã được tiến hành tại Uruguay. Tham dự có Che Guevara và phụ tá Nhà Trắng Hoa Kỳ Richard Goodwin.
Guevara presented Goodwin with a box of Cuban cigars to take back to President Kennedy as a token of goodwill, expressing his hope that negotiations might resume and that US-Cuban relations might normalize.Guevara đã tặng Goodwin một hộp xì gà Cuba để mang lại cho Tổng thống Kennedy như một biểu hiện thiện chí, bày tỏ hy vọng rằng các cuộc đàm phán có thể được nối lại và quan hệ Mỹ-Cuba có thể bình thường hóa.
Edit

#4. Hy vọng bình thường hóa đã bị đình trệ bởi Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, nhưng các cuộc đàm phán về tù nhân vẫn tiếp tục.​

Back Channel to Cuba Key Idea #4: Hopes for normalization were stalled by the Cuban Missile Crisis, but prisoner negotiations kept the door open.# 4: Hy vọng bình thường hóa đã bị đình trệ bởi Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, nhưng các cuộc đàm phán về tù nhân vẫn mở cửa.
After the Bay of Pigs fiasco, the United States was faced with the issue of trying to peacefully negotiate the release of 1,200 prisoners.Sau thất bại của sự kiện Vịnh Con Lợn, Hoa Kỳ đã phải đối mặt với vấn đề cố gắng đàm phán hòa bình để trả tự do cho 1.200 tù nhân.
For this, they turned to ace negotiator James B. Donovan who had just successfully handled the release of a US soldier from East Germany.Vì lý do này, họ nhờ đến nhà đàm phán giỏi James B. Donovan, người vừa xử lý thành công việc thả một binh sĩ Hoa Kỳ khỏi Đông Đức.
Donovan arrived in Cuba on August 30, 1962, with a clear mission from Robert Kennedy: talk Castro down from his demands of $62 million and an additional $26 million in food and medicine.Donovan đến Cuba vào ngày 30 tháng 8 năm 1962, với một nhiệm vụ rõ ràng từ Robert Kennedy: yêu cầu Castro giảm 62 triệu đô la và thêm 26 triệu đô la thực phẩm và thuốc men.
The talks began well, with Donovan convincing Castro to increase the amount of medicine and lower the amount of actual money. But Castro remained hesitant and suspicious of the United States.Cuộc đàm phán bắt đầu tốt đẹp, Donovan thuyết phục Castro tăng số lượng thuốc và giảm số tiền mặt. Nhưng Castro vẫn do dự và nghi ngờ Hoa Kỳ.
Then, just days after the second round of negotiations, a spy plane flew over Cuba and spotted Soviet missiles, which immediately put an end to any further talks.Sau đó, chỉ vài ngày sau vòng đàm phán thứ hai, một máy bay do thám đã bay qua Cuba và phát hiện tên lửa của Liên Xô, điều này ngay lập tức chấm dứt bất kỳ cuộc đàm phán nào tiếp theo.
On October 14, President Kennedy ordered a naval blockade of Cuba, preventing Soviet ships from entering and starting a two-week standoff that became known as The Cuban Missile Crisis.Vào ngày 14 tháng 10, Tổng thống Kennedy đã ra lệnh phong tỏa hải quân Cuba, ngăn không cho tàu Liên Xô vào và bắt đầu cuộc phong toả kéo dài hai tuần được gọi là Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.
But meanwhile, through a secret back channel with the Brazilian government, the White House continued to talk with Cuba.Nhưng trong khi đó, thông qua một kênh điện đàm bí mật với chính phủ Brazil, Nhà Trắng tiếp tục trao đổi với Cuba.
Kennedy offered Castro a clear path to improving relations with the United States: cut all ties with the Soviet Union. Castro was curious about this back-channel news, but he was even more surprised when, on October 28, Khrushchev backed down and agreed to remove the missiles without notifying Castro.Kennedy đề nghị Castro một con đường rõ ràng để cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ: cắt đứt mọi quan hệ với Liên Xô. Castro tò mò về tin tức này, nhưng ông còn ngạc nhiên hơn khi vào ngày 28 tháng 10, Khrushchev đã từ chối và đồng ý loại bỏ tên lửa mà không cần thông báo cho Castro.
Unhappy at being left out of the negotiation process by Khrushchev, Castro told the United States he was eager to resume talks with Donovan.Không hài lòng khi bị Khrushchev bỏ mặc trong khi quá trình đàm phán đang diễn ra, Castro nói với Hoa Kỳ rằng ông mong muốn nối lại các cuộc đàm phán với Donovan.
Donovan returned to Cuba and, on December 21, a memo was signed for the release of all prisoners in exchange for $2.9 million and an additional $53 million in medicine and food.Donovan quay trở lại Cuba và vào ngày 21 tháng 12, một bản ghi nhớ đã được ký về việc trả tự do cho tất cả các tù nhân để đổi lấy 2,9 triệu đô la và thêm 53 triệu đô la tiền thuốc men và thực phẩm.
Edit

#5. James Donovan và một phóng viên tin tức đầy tham vọng đã giữ quá trình đàm phán tiếp tục.​

Back Channel to Cuba Key Idea #5: James Donovan and an ambitious news reporter kept the possibility of negotiations alive.# 5: James Donovan và một phóng viên tin tức đầy tham vọng đã giữ khả năng đàm phán vẫn tồn tại.
After the release of the Bay of Pigs prisoners, both Donovan and Castro were intent on keeping the conversation going. Through their talks, they were building a mutual friendship, and both felt that progress could continue to be made.Sau khi các tù nhân bị bắt ở Vịnh Con Lợn được thả, cả Donovan và Castro đều có ý định tiếp tục cuộc trò chuyện. Thông qua các cuộc nói chuyện, họ đã xây dựng một tình bạn chung và cả hai đều cảm thấy rằng có thể tiếp tục đạt được tiến bộ.
As 1963 began, Donovan and Castro continued to work together to release several dozen US citizens who’d been arrested during Castro’s revolution. In January, these prisoners were exchanged for four Cubans who’d been imprisoned in the United States.Khi năm 1963 bắt đầu, Donovan và Castro tiếp tục làm việc cùng nhau để trả tự do cho hàng chục công dân Hoa Kỳ đã bị bắt trong cuộc cách mạng của Castro. Vào tháng Giêng, những tù nhân này đã được đổi lấy bốn người Cuba đã bị giam cầm ở Hoa Kỳ.
In April, Donovan again returned to Cuba to sustain the momentum of improved relations. He even brought his teenage son along with him and the two joined Castro on a fishing trip and attended a baseball game.Vào tháng 4, Donovan một lần nữa quay trở lại Cuba để duy trì đà cải thiện quan hệ. Anh thậm chí còn dẫn theo cậu con trai tuổi teen của mình và cả hai đã cùng Castro đi câu cá và tham dự một trận đấu bóng chày.
But one fact hung heavy over their talks: the White House had instructed Donovan to tell Castro that, before normal relations could resume, Cuba must sever ties with the Soviets.Nhưng có một thực tế khiến các cuộc đàm phán của họ trở nên nặng nề: Nhà Trắng đã chỉ thị cho Donovan nói với Castro rằng, trước khi quan hệ bình thường có thể nối lại, Cuba phải cắt đứt quan hệ với Liên Xô.
Despite this impasse, Castro told Donovan he was still interested in continuing negotiations, though he was unsure how the two nations should proceed.Bất chấp sự bế tắc này, Castro nói với Donovan rằng ông vẫn quan tâm đến việc tiếp tục đàm phán, mặc dù ông không chắc hai quốc gia nên tiến hành như thế nào.
In response, Donovan told Castro a joke: The two nations should proceed like porcupines trying to make love – very carefully.Đáp lại, Donovan nói đùa với Castro: Hai quốc gia nên tiến hành như những con nhím đang làm tình - Phải rất cẩn thận.
On his final visit, Donovan introduced Castro to TV news reporter Lisa Howard, who would continue to keep hopes of normalization alive. Howard and Castro got along well, with Castro agreeing to appear on her TV show. He explained to Howard that Cuba was ready to discuss many options for moving forward.Trong chuyến thăm cuối cùng của mình, Donovan đã giới thiệu Castro với phóng viên tin tức truyền hình Lisa Howard, người sẽ tiếp tục nuôi hy vọng bình thường hóa. Howard và Castro rất hợp nhau, Castro đồng ý xuất hiện trên chương trình truyền hình của cô ấy. Ông giải thích với Howard rằng Cuba đã sẵn sàng thảo luận về nhiều lựa chọn để tiến lên phía trước.
The episode aired on May 10, 1963, and held the attention of the nation, with The New York Times headline reading: “Castro Applauds U.S. Peace Steps.”Tập phim được phát sóng vào ngày 10 tháng 5 năm 1963 và thu hút sự chú ý của cả nước, với dòng tiêu đề của The New York Times: “Castro hoan nghênh các bước đi hòa bình của Hoa Kỳ”.
Her efforts were proving so successful that the White House eventually gave Howard her own back channel to Cuba.Những nỗ lực của bà đã thành công đến mức Nhà Trắng cuối cùng đã trao cho Howard kênh điện đàm của riêng bà cho Cuba.
The White House agreed to a plan for Howard to contact Cuba and ask whether Castro would agree to a meeting with Howard’s friend William Attwood, former editor of Look magazine and advisor to Adlai Stevenson, the United States ambassador to the United Nations.Nhà Trắng đã đồng ý kế hoạch để Howard liên lạc với Cuba và hỏi liệu Castro có đồng ý cuộc gặp với William Attwood, bạn của Howard, cựu biên tập viên tạp chí Look và là cố vấn của Adlai Stevenson, đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc hay không.
Edit

 

#6. Vụ ám sát John F. Kennedy và chính quyền Johnson sau đó đã làm gián đoạn các cuộc đàm phán đang diễn ra.​

Back Channel to Cuba Key Idea #6: The assassination of John F. Kennedy, and the subsequent Johnson administration, impaired ongoing negotiations# 6: Vụ ám sát John F. Kennedy và chính quyền Johnson sau đó đã làm suy yếu các cuộc đàm phán đang diễn ra.
While Howard was making progress with her back channel, President Kennedy asked French journalist Jean Daniel to pass along a message of hope to Castro that relations could improve.Trong khi Howard đang đạt được tiến bộ với kênh liên lạc của mình, Tổng thống Kennedy đã đề nghị nhà báo Pháp Jean Daniel chuyển cho Castro một thông điệp hy vọng rằng quan hệ có thể được cải thiện.
But just as Daniel was talking to Castro on November 22, 1963, Castro received a phone call informing him that Kennedy had just been assassinated.Nhưng ngay khi Daniel đang nói chuyện với Castro vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, Castro nhận được một cuộc điện thoại thông báo rằng Kennedy vừa bị ám sát.
Instantly, Castro worried that he would be blamed. And he knew that any hopes for peace would be cut short.Ngay lập tức, Castro lo lắng rằng mình sẽ bị đổ lỗi. Và ông biết rằng mọi hy vọng về hòa bình sẽ bị cắt đứt.
The assassination also disrupted Howard’s efforts.Vụ ám sát cũng làm gián đoạn nỗ lực của Howard.
On November 19, Howard had passed along instructions for Cuba to send an agenda for their meeting with Attwood. But when Cuba’s response arrived, just days later, there was a new president, Lyndon B. Johnson, and the response got lost in the aftermath of Kennedy’s assassination.Vào ngày 19 tháng 11, Howard đã thông qua chỉ thị cho Cuba để gửi một chương trình nghị sự cho cuộc gặp của họ với Attwood. Nhưng khi phản hồi của Cuba đến vài ngày sau đó, tổng thống mới, Lyndon B. Johnson, và phản hồi đã bị thất bại sau vụ ám sát Kennedy.
Furthermore, Johnson’s administration did not want to come across as being “soft on communism,” and they immediately looked into more aggressive policies for dealing with Cuba.Hơn nữa, chính quyền của Johnson không muốn bị coi là “mềm mỏng với chủ nghĩa cộng sản”, và họ ngay lập tức xem xét các chính sách cứng rắn hơn để đối phó với Cuba.
Adding to the troubles was evidence that Cuba was assisting armed revolutions taking place in Brazil and Venezuela. Johnson took this as proof of Cuba’s duplicitousness – a blatant contradiction of its talk about improving relations with the United States.Thêm vào những rắc rối là bằng chứng cho thấy Cuba đang hỗ trợ các cuộc cách mạng vũ trang đang diễn ra ở Brazil và Venezuela. Johnson coi điều này là bằng chứng cho thấy sự trùng hợp của Cuba - một sự mâu thuẫn trắng trợn khi nói về việc cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ.
But Castro was certain that the two nations could improve relations without the United States dictating Cuba’s foreign policy. Nevertheless, things escalated once again as Johnson responded by tightening the Cuban embargo and travel ban.Nhưng Castro chắc chắn rằng hai quốc gia có thể cải thiện quan hệ mà không cần Hoa Kỳ ra lệnh cho chính sách đối ngoại của Cuba. Tuy nhiên, mọi thứ lại leo thang khi Johnson đáp trả bằng cách thắt chặt lệnh cấm vận và cấm đi lại đối với Cuba.
In September 1965, these travel restrictions led Castro to open the port of Camarioca, which allowed access to any Cuban who wanted to flee to the United States. This resulted in thousands of Cubans setting sail and seeking refuge.Vào tháng 9 năm 1965, những hạn chế đi lại này khiến Castro phải mở cảng Camarioca, cho phép tiếp cận bất kỳ người Cuba nào muốn chạy sang Hoa Kỳ. Điều này dẫn đến việc hàng nghìn người Cuba ra khơi và tìm kiếm nơi ẩn náu.
This forced the two nations to publicly negotiate for the first time in years, as the United States coordinated the Cuban Refugee Airlift and initiated a path to citizenship for some 260,737 Cubans.Điều này buộc hai quốc gia phải công khai đàm phán lần đầu tiên sau nhiều năm, khi Hoa Kỳ điều phối Không vận người tị nạn Cuba và khởi xướng con đường trở thành công dân cho khoảng 260.737 người Cuba.
The airlift would continue to make two flights out of Cuba daily until 1973.Cuộc không vận sẽ tiếp tục thực hiện hai chuyến bay ra khỏi Cuba mỗi ngày cho đến năm 1973.
Edit

#7. Richard Nixon từ chối điện đàm với Cuba; Henry Kissinger thì lại khác.​

Back Channel to Cuba Key Idea #7: Richard Nixon refused to negotiate with Cuba; Henry Kissinger had different ideas.Kênh Quay lại Cuba Ý tưởng chính # 7: Richard Nixon từ chối đàm phán với Cuba; Henry Kissinger có những ý tưởng khác.
If Castro was displeased with the hard-line tactics of Lyndon Johnson, he was infuriated by the policies of Richard Nixon.Nếu Castro không hài lòng với các chiến thuật cứng rắn của Lyndon Johnson, thì ông lại tức giận với các chính sách của Richard Nixon.
When Nixon took office in 1969, he disliked Castro extremely, informing his cabinet that, as long as he was president, there would be absolutely no change in policy regarding Cuba.Khi Nixon nhậm chức năm 1969, ông cực kỳ ghét Castro, ông đã thông báo cho nội các của mình rằng, chừng nào ông còn là chủ tịch, thì sẽ tuyệt đối không thay đổi chính sách liên quan đến Cuba.
And he remained true to his word. Even when faced with an epidemic of plane hijackings, Nixon refused to cooperate with Cuba to find a solution.Và ông ấy vẫn giữ lời của mình. Ngay cả khi đối mặt với nạn cướp máy bay, Nixon vẫn từ chối hợp tác với Cuba để tìm giải pháp.
Between 1968 and 1972, there were 325 hijackings, many of them by supporters of Castro from the United States and elsewhere, all seeking asylum in Cuba. In the first months of 1969 alone, 12 planes were hijacked and rerouted to Cuba.Từ năm 1968 đến năm 1972, có 325 vụ không tặc, trong đó có 325 vụ không tặc, trong đó có nhiều vụ do những người ủng hộ Castro từ Hoa Kỳ và các nơi khác, tất cả đều xin tị nạn ở Cuba. Chỉ trong những tháng đầu năm 1969, 12 máy bay đã bị cướp và chuyển hướng đến Cuba.
But Cuba did not want to be held responsible for these hijackings – and they hoped the United States would do its part in bringing Cuban exiles to justice.Nhưng Cuba không muốn phải chịu trách nhiệm về những vụ không tặc này - và họ hy vọng Hoa Kỳ sẽ làm phần việc của mình trong việc đưa những người Cuba lưu vong ra trước công lý.
Cuba announced their intentions to prosecute the hijackers and to extradite the criminals to countries that had negotiated terms. But Nixon refused to negotiate.Cuba thông báo ý định truy tố những kẻ không tặc và dẫn độ những tên tội phạm đến các quốc gia đã đàm phán các điều khoản. Nhưng Nixon từ chối đàm phán.
However, this policy of refusing to negotiate didn’t make much sense to Nixon’s secretary of state, Henry Kissinger. After all, Nixon was making positive headlines for negotiating with communist China and a recent poll showed that only 33 percent of Americans were opposed to normalizing relations with Cuba.Tuy nhiên, chính sách từ chối đàm phán này không có nhiều ý nghĩa đối với ngoại trưởng của Nixon, Henry Kissinger. Rốt cuộc, Nixon đã đưa ra những tiêu đề tích cực cho việc đàm phán với Trung Quốc cộng sản và một cuộc thăm dò gần đây cho thấy chỉ có 33% người Mỹ phản đối việc bình thường hóa quan hệ với Cuba.
Also, in 1973, many Latin American nations – such as Chile, Peru and Argentina – were restoring trade agreements with Cuba, and it was clear to Kissinger that economic sanctions and subversive actions were doing little to disrupt the Castro government.Ngoài ra, vào năm 1973, nhiều quốc gia Mỹ Latinh - như Chile, Peru và Argentina - đang khôi phục các thỏa thuận thương mại với Cuba, và Kissinger rõ ràng rằng các biện pháp trừng phạt kinh tế và các hành động lật đổ hầu như không ảnh hưởng đến chính phủ Castro.
So, in 1974, while Nixon was distracted with the Watergate scandal, Kissinger sent political advisor Frank Mankiewicz to deliver a message to Castro. Kissinger was interested in secret, back-channel talks.Vì vậy, vào năm 1974, trong khi Nixon bị phân tâm với vụ bê bối Watergate, Kissinger đã cử cố vấn chính trị Frank Mankiewicz đến gửi một thông điệp cho Castro. Kissinger quan tâm đến các cuộc đàm phán bí mật, kênh điện đàm.
Edit

#8. Henry Kissinger đã cố gắng giữ cho các cuộc điện đàm tiếp tục diễn ra trong thời kỳ khó khăn khi Gerald Ford làm Tổng thống.​

Back Channel to Cuba Key Idea #8: Henry Kissinger tried to keep back-channel talks going during the difficult times in Gerald Ford’s presidency.Kênh Quay lại Cuba Ý tưởng chính # 8: Henry Kissinger đã cố gắng giữ cho các cuộc đàm phán trên kênh trở lại diễn ra trong thời kỳ khó khăn trong nhiệm kỳ tổng thống của Gerald Ford.
After the Watergate scandal, and Nixon’s resignation, Vice President Gerald Ford took office. Kissinger remained secretary of state, and continued to approve secret meetings with Cuban officials throughout the mid-seventies.Sau vụ bê bối Watergate, và việc Nixon từ chức, Phó Tổng thống Gerald Ford đã lên nắm quyền. Kissinger vẫn giữ chức ngoại trưởng, và tiếp tục phê chuẩn các cuộc họp bí mật với các quan chức Cuba trong suốt những năm 70.
Kissinger even approved US travel visas to Cuban representatives, allowing for the first face-to-face talks in many years.Kissinger thậm chí còn chấp thuận thị thực du lịch của Hoa Kỳ cho các đại diện Cuba, cho phép tổ chức các cuộc đàm phán mặt đối mặt đầu tiên trong nhiều năm.
Despite these efforts, the talks made it clear that there was a fundamental conflict preventing the United States and Cuba from making progress.Bất chấp những nỗ lực này, các cuộc đàm phán đã làm rõ rằng có một xung đột cơ bản ngăn cản Hoa Kỳ và Cuba đạt được tiến bộ.
On the one hand, Cuba’s foreign minister, Pelegrín Torras, made clear that the United States had to lift the blockade against Cuba before they could take negotiations seriously.Một mặt, Ngoại trưởng Cuba, Pelegrín Torras, nói rõ rằng Hoa Kỳ phải dỡ bỏ lệnh phong tỏa đối với Cuba trước khi họ có thể tiến hành các cuộc đàm phán một cách nghiêm túc.
On the other hand, the United States continued to press Cuba about reducing their pro-revolution involvement in other Latin American countries, as well as cutting ties with the Soviet Union, before they could talk about lifting the blockade.Mặt khác, Hoa Kỳ tiếp tục gây sức ép với Cuba về việc giảm bớt sự tham gia ủng hộ cách mạng của họ ở các nước Mỹ Latinh khác, cũng như cắt đứt quan hệ với Liên Xô, trước khi họ có thể nói về việc dỡ bỏ cấm vận.
Talks remained at an impasse – and, in 1975, matters were made trickier by Castro’s sending troops to Angola to help resolve an ongoing civil war.Các cuộc đàm phán vẫn rơi vào bế tắc - và vào năm 1975, vấn đề trở nên phức tạp hơn khi Castro gửi quân đến Angola để giúp giải quyết một cuộc nội chiến đang diễn ra.
Two warring factions were fighting for control: the People's Movement for the Liberation of Angola (MPLA), supported by the Soviet Union and Cuba, and the National Union for the Total Independence of Angola (UNITA), supported by South Africa and, covertly, by the United States.Hai phe tham chiến đang tranh giành quyền kiểm soát gồm có: Phong trào Nhân dân Giải phóng Angola (MPLA), được Liên Xô và Cuba ủng hộ, và Liên minh Quốc gia vì Độc lập Hoàn toàn Angola (UNITA), được Nam Phi ủng hộ và, một cách bí mật, là của Hoa Kỳ.
Cuba’s involvement so angered President Ford that he ordered all negotiations to stop.Sự can dự của Cuba khiến Tổng thống Ford tức giận đến mức ông đã ra lệnh dừng tất cả các cuộc đàm phán.
Nevertheless, Kissinger tried to keep the back-channels open in 1976, which proved very difficult as more events unfolded.Tuy nhiên, Kissinger đã cố gắng giữ cho các kênh hậu cần vẫn mở vào năm 1976, điều này tỏ ra rất khó khăn khi nhiều sự kiện xảy ra.
Cuban exiles operating out of the United States launched a series of attacks on Cuban embassies around the world and bombed a Cuban airline on October 6, 1976, killing 73 passengers.Những người Cuba lưu vong hoạt động ngoài nước Mỹ đã tiến hành một loạt cuộc tấn công vào các đại sứ quán Cuba trên khắp thế giới và đánh bom một hãng hàng không của Cuba vào ngày 6 tháng 10 năm 1976, khiến 73 hành khách thiệt mạng.
Making matters worse, there was evidence that the bombing was orchestrated by a former CIA operative. Castro demanded that the United States take action against the Cuban exiles before talks could resume.Càng tệ hơn, có bằng chứng cho thấy vụ đánh bom được dàn dựng bởi một cựu đặc nhiệm CIA. Castro yêu cầu Hoa Kỳ có hành động chống lại những người Cuba lưu vong trước khi các cuộc đàm phán có thể tiếp tục.
Edit

#9. Tổng thống Jimmy Carter đã cố gắng nối lại điện đàm với Cuba, nhưng một cuộc khủng hoảng khác đã kết thúc nhiệm kỳ của Carter.​

Back Channel to Cuba Key Idea #9: President Jimmy Carter tried starting talks with Cuba, but another crisis ended Carter’s term on a bad note.# 9: Tổng thống Jimmy Carter đã cố gắng bắt đầu các cuộc đàm phán với Cuba, nhưng một cuộc khủng hoảng khác đã kết thúc nhiệm kỳ của Carter với một kết quả tồi tệ.
In 1977, when Jimmy Carter took office, the issues of Cuban exiles and Angola still loomed over negotiations. But the new president had a different agenda.Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức, vấn đề người Cuba lưu vong và Angola vẫn còn lấp lửng trong các cuộc đàm phán. Nhưng tổng thống mới có một chương trình nghị sự khác.
Carter believed the best way to bring about change in a communist regime was to open it up to trade and commerce. He also put an end to spy plane fly-overs and added an “Interest Section” in Havana, which was much like embassy but without official diplomatic status.Carter tin rằng cách tốt nhất để mang lại sự thay đổi trong một chế độ cộng sản là mở cửa cho giao thương và thương mại. Ông cũng chấm dứt hoạt động bay do thám của máy bay và thêm một “Cơ quan đại diện” ở Havana, giống như đại sứ quán nhưng không có tư cách ngoại giao chính thức.
Progress continued as Castro agreed to recognize people with dual citizenship and made a goodwill gesture by releasing more US political prisoners.Tiến trình tiếp tục được tiến hành khi Castro đồng ý công nhận những người có hai quốc tịch và thực hiện một cử chỉ thiện chí bằng cách thả thêm tù nhân chính trị Hoa Kỳ.
But in 1978, talks once again hit an impasse. The United States still refused to talk about lifting the blockade until Cuba changed its foreign policy regarding Angola and withdrew its support for the independence of Puerto Rico.Nhưng vào năm 1978, các cuộc đàm phán một lần nữa rơi vào bế tắc. Hoa Kỳ vẫn từ chối nói về việc dỡ bỏ lệnh phong tỏa cho đến khi Cuba thay đổi chính sách đối ngoại liên quan đến Angola và rút lại sự ủng hộ đối với nền độc lập của Puerto Rico.
Again, Cuba was insulted at the idea of changing their foreign policy to suit the United States.Một lần nữa, Cuba đã bị xúc phạm khi có ý tưởng thay đổi chính sách đối ngoại của họ cho phù hợp với Hoa Kỳ.
And then, in late 1979, Carter was faced with another Cuban crisis.Và sau đó, vào cuối năm 1979, Carter phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng Cuba khác.
At this time, Cuba was in a severe economic recession due in part to crop and livestock diseases that badly damaged food supplies, prompting more people to attempt to flee Cuba by any means available.Vào thời điểm này, Cuba đang rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế trầm trọng một phần do dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi gây thiệt hại nặng nề cho nguồn cung cấp lương thực, khiến nhiều người tìm cách chạy trốn khỏi Cuba bằng mọi cách.
Unfortunately, this meant resorting to violence and the hijacking of boats.Thật không may, điều này có nghĩa là phải dùng đến bạo lực và cướp thuyền.
But the United States penalized no one for these acts. Indeed, part of US policy was to openly welcome Cuban refugees as a way of undermining the Cuban government.Nhưng Hoa Kỳ không phạt ai vì những hành vi này. Thật vậy, một phần chính sách của Hoa Kỳ là công khai chào đón những người tị nạn Cuba như một cách phá hoại chính phủ Cuba.
Castro again warned the United States against treating violent Cuban exiles and refugees with leniency. And this time, he said that if the United States didn’t do something to deter the criminals, it would lead to another crisis.Castro một lần nữa cảnh báo Hoa Kỳ không nên đối xử với những người Cuba lưu vong và tị nạn bạo lực với sự khoan hồng. Và lần này, ông nói rằng nếu Hoa Kỳ không làm điều gì đó để ngăn chặn bọn tội phạm, nó sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng khác.
But his warnings fell on deaf ears.Nhưng những lời cảnh báo của ông đã không được đáp lại.
Fed up, Castro opened a port in Mariel Harbor in April of 1980, allowing thousands of Cuban boats to take to the sea and head to Florida. Despite efforts of the Coast Guard, 80,000 Cubans entered the United States.Chán nản, Castro đã mở một cảng ở Cảng Mariel vào tháng 4 năm 1980, cho phép hàng nghìn tàu thuyền của Cuba ra khơi và đến Florida. Bất chấp nỗ lực của Cảnh sát biển, 80.000 người Cuba đã vào Mỹ.
The press dubbed this event the Freedom Flotilla, and the debacle severely hurt Carter’s chances of re-election.Báo chí đã gọi sự kiện này là Freedom Flotilla, và sự thất bại đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơ hội tái đắc cử của Carter.
Edit

# 10. Ronald Reagan và George HW Bush chỉ điện đàm với Cuba khi bị ép buộc.​

Back Channel to Cuba Key Idea #10: Ronald Reagan and George H.W. Bush negotiated with Cuba only when forced to.#10: Ronald Reagan và George HW Bush chỉ đàm phán với Cuba khi bị ép buộc.
Ronald Reagan trounced Carter in the election of 1980. Reagan had a very aggressive policy when it came to Cuba; he was willing to tighten embargos and sanctions, and, if given the chance, even to order a military invasion.Ronald Reagan đã vượt qua Carter trong cuộc bầu cử năm 1980. Reagan có một chính sách rất cứng rắn với Cuba; ông sẵn sàng thắt chặt các lệnh cấm vận và trừng phạt, và nếu có cơ hội, thậm chí ra lệnh cho một cuộc xâm lược quân sự.
Castro knew this and, hoping to maintain non-threatening relations with the new administration, he stopped sending support to guerrilla armies in Nicaragua and El Salvador.Castro biết điều này và hy vọng duy trì quan hệ không đe dọa với chính quyền mới, ông đã ngừng gửi hỗ trợ cho các đội quân du kích ở Nicaragua và El Salvador.
The Reagan administration, despite its hostility, was still forced to cooperate with Cuba on the issue of excludables, the thousands of Cubans who had entered the United States with lengthy criminal records. At the time, the United States had no policy with Cuba on how to return them.Chính quyền Reagan, bất chấp thái độ thù địch, vẫn buộc phải hợp tác với Cuba về vấn đề người tị nạn, hàng nghìn người Cuba đã nhập cảnh vào Hoa Kỳ với nhiều hồ sơ tội phạm. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ không có chính sách nào với Cuba về cách trả lại họ.
In 1984, the United States was finally forced to deal with this issue by entering into formal talks.Năm 1984, Hoa Kỳ cuối cùng đã buộc phải giải quyết vấn đề này bằng cách tham gia vào các cuộc đàm phán chính thức.
And on December 13, 1984, the United States and Cuba came to an agreement: the 2,746 excludables would return to Cuba and the United States would grant Cuba an immigration quota of 20,000 people per year.Và vào ngày 13 tháng 12 năm 1984, Hoa Kỳ và Cuba đã đi đến một thỏa thuận: 2.746 người bị loại trừ sẽ trở lại Cuba và Hoa Kỳ sẽ cấp cho Cuba hạn ngạch nhập cư 20.000 người mỗi năm.
Castro hoped these talks would dovetail with broader issues in need of improvement – but there were no further discussions.Castro hy vọng các cuộc đàm phán này sẽ kết hợp với các vấn đề rộng lớn hơn cần được cải thiện - nhưng không có cuộc thảo luận nào thêm.
Instead, Castro was brashly insulted by the United States, which launched Radio Marti, a subversive radio station aimed at creating dissent against the Castro government, on May 20, 1985 – Cuba’s Independence Day.Thay vào đó, Castro đã bị xúc phạm một cách thô bạo bởi Hoa Kỳ, nơi đã cho ra đời Radio Marti, một đài phát thanh lật đổ nhằm tạo ra bất đồng chính kiến chống lại chính phủ Castro, vào ngày 20 tháng 5 năm 1985 - Ngày Độc lập của Cuba.
As the years went on, and the Reagan presidency transitioned into the George H. W. Bush presidency, the Cold War gradually came to an end. To the new administration, it seemed like merely a matter of time before Cuba would no longer be an issue.Nhiều năm trôi qua, và nhiệm kỳ tổng thống Reagan chuyển sang nhiệm kỳ tổng thống George HW Bush, Chiến tranh Lạnh dần kết thúc. Đối với chính quyền mới, có vẻ như chỉ là vấn đề thời gian trước khi Cuba không còn là vấn đề nữa.
After all, by 1991, most communist governments were collapsing, and after talks with Mikhail Gorbachev and Boris Yeltsin, there was confirmation that Russian military aid to Cuba would be cut off by January of 1992.Rốt cuộc, vào năm 1991, hầu hết các chính phủ cộng sản đã sụp đổ, và sau cuộc hội đàm với Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin, đã có xác nhận rằng viện trợ quân sự của Nga cho Cuba sẽ bị cắt vào tháng 1 năm 1992.
In the eyes of the Bush administration, all they had to do was wait it out.Dưới con mắt của chính quyền Bush, tất cả những gì họ phải làm là chờ đợi.
Edit

#11. Đối với Bill Clinton, mục tiêu chính trị quyết định các giao dịch với Cuba.​

Back Channel to Cuba Key Idea #11: For Bill Clinton, politics dictated dealings with Cuba.#11: Đối với Bill Clinton, chính trị quyết định các giao dịch với Cuba.
By the 1990s, Florida was an important swing state for winning US elections, and it had a very large Cuban-American and anti-Castro population. Bill Clinton was well aware of this, so when he campaigned for the presidency, he ran on an aggressive policy toward Cuba.Vào những năm 1990, Florida là một bang xoay quanh quan trọng để giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử Hoa Kỳ, và nó có một lượng rất lớn người Mỹ gốc Cuba và chống Castro. Bill Clinton nhận thức rõ điều này nên khi vận động tranh cử tổng thống, ông đã đưa ra chính sách hiếu chiến đối với Cuba.
Soon after he stepped into office in 1993, Clinton signed the Cuban Democracy Act into law. This act was designed by Florida’s anti-Castro lobbyists to tighten the embargo and support opportunities for internal revolt against the Castro government.Ngay sau khi ông nhậm chức vào năm 1993, Clinton đã ký Đạo luật Dân chủ Cuba thành luật. Đạo luật này được thiết kế bởi những người vận động hành lang chống Castro của Florida nhằm thắt chặt lệnh cấm vận và hỗ trợ các cơ hội cho cuộc nổi dậy nội bộ chống lại chính phủ Castro.
Clinton and his administration weren’t entirely anti-Castro, however. If they could find holes in the act, they would try to improve relations. They just had to do it carefully, without appearing to be cooperating with Cuba and thereby angering Clinton’s Cuban-American supporters.Tuy nhiên, Clinton và chính quyền của ông không hoàn toàn chống Castro. Nếu họ có thể tìm thấy lỗ hổng trong hành động, họ sẽ cố gắng cải thiện mối quan hệ. Họ chỉ cần làm điều đó một cách cẩn thận, không có vẻ hợp tác với Cuba và do đó khiến những người ủng hộ người Mỹ gốc Cuba của Clinton tức giận.
They did this deftly. By working within the confines of the act, they were able to loosen travel restrictions and welcome Cuban scholars, musicians and artists to travel to the United States.Họ đã làm điều này một cách khéo léo. Bằng cách làm việc trong giới hạn của đạo luật, họ đã có thể nới lỏng các hạn chế đi lại và chào đón các học giả, nhạc sĩ và nghệ sĩ Cuba đến Mỹ.
But another immigration crisis loomed, making necessary further back-channel talks and political maneuvering.Nhưng một cuộc khủng hoảng nhập cư khác lại bùng phát, khiến các cuộc đàm phán kênh sau và cơ động chính trị tiếp tục diễn ra cần thiết.
In 1993, thousands of Cubans once again took to the water in homemade rafts, or balsas, leading to what was called the Balsero Crisis.Năm 1993, hàng nghìn người Cuba một lần nữa xuống nước bằng những chiếc bè tự chế, hay còn gọi là balsas, dẫn đến cái được gọi là Cuộc khủng hoảng Balsero.
It reached its peak in August 1994 when, in one single day, 3,253 people were picked up by the US Coast Guard.Nó đạt đến đỉnh điểm vào tháng 8 năm 1994 khi chỉ trong một ngày, 3.253 người đã được Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Hoa Kỳ đón.
This time, the back-channel talks resulted in Castro’s friend, Nobel laureate writer Gabriel Garcia Marquez, sitting down to dinner with the Clintons to discuss ways to resolve the crisis.Lần này, các cuộc đàm phán dẫn đến việc bạn của Castro, nhà văn từng đoạt giải Nobel Gabriel Garcia Marquez, ngồi ăn tối với gia đình Clintons để thảo luận về cách giải quyết cuộc khủng hoảng.
Marquez delivered Castro’s message: Negotiations about immigration must lead to broader talks about the embargo and how to improve relations.Marquez đưa ra thông điệp của Castro: Các cuộc đàm phán về nhập cư phải dẫn đến các cuộc đàm phán rộng hơn về lệnh cấm vận và cách cải thiện quan hệ.
Through Marquez, Clinton sent a return message: If Castro helped stop the flow of immigrants, which would improve Clinton’s chances of serving a second term, they could talk about other issues.Thông qua Marquez, Clinton đã gửi một thông điệp trở lại: Nếu Castro giúp ngăn chặn dòng người nhập cư, điều này sẽ cải thiện cơ hội phục vụ nhiệm kỳ thứ hai của Clinton, họ có thể nói về các vấn đề khác.
Edit

 

#12: Sau một sự cố chết người, Clinton kết thúc nhiệm kỳ tổng thống với mối quan hệ được cải thiện giữa Hoa Kỳ và Cuba​

Back Channel to Cuba Key Idea #12: After a deadly incident, Clinton ended his presidency with improved relations between the United States and Cuba.# 12: Sau một sự cố chết người, Clinton kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của mình với mối quan hệ được cải thiện giữa Hoa Kỳ và Cuba.
Castro held up his end of the bargain with Clinton, and by election time in September 1994, there were no migrants for the Coast Guard to pick up.Castro đã kết thúc cuộc mặc cả với Clinton, và đến thời điểm bầu cử vào tháng 9 năm 1994, không có người di cư nào để Cảnh sát biển đón.
But just as Clinton began his second term, anti-Castro demonstrators started making things increasingly difficult.Nhưng ngay khi Clinton bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai, những người biểu tình chống Castro bắt đầu khiến mọi thứ ngày càng trở nên khó khăn.
Particularly troubling were Brothers to the Rescue (BTTR), a Miami organization that flew planes over Cuba and dropped anti-Castro propaganda.Đặc biệt rắc rối là Brothers to the Rescue (BTTR), một tổ chức ở Miami đã cho máy bay bay qua Cuba và tuyên truyền chống Castro.
Throughout 1994 and 1995, Castro had been pleading with the United States to put a stop to the illegal flights; otherwise, he said, the Cuban military would be forced to take action.Trong suốt năm 1994 và 1995, Castro đã cầu xin Hoa Kỳ ngừng các chuyến bay bất hợp pháp; nếu không, ông nói, quân đội Cuba sẽ buộc phải hành động.
Unfortunately, despite the urgent messages, the United States did nothing. And on January 22, 1996, two BTTR planes were shot down by the Cuban military, killing four men.Thật không may, bất chấp những thông điệp khẩn cấp, Hoa Kỳ đã không làm gì cả. Và vào ngày 22 tháng 1 năm 1996, hai máy bay BTTR đã bị quân đội Cuba bắn rơi khiến 4 người thiệt mạng.
The incident led to the passing of the Helms-Burton Bill, which stripped the president of the authority to lift sanctions against Cuba. This authority was now solely in the hands of Congress. The bill effectively dashed any hopes Clinton might have had for making lasting improvements to US-Cuban relations.Vụ việc dẫn đến việc thông qua Dự luật Helms-Burton, tước bỏ thẩm quyền dỡ bỏ các lệnh trừng phạt đối với Cuba của tổng thống. Quyền lực này giờ chỉ nằm trong tay Quốc hội. Dự luật đã đánh tan mọi hy vọng mà Clinton có thể có trong việc cải thiện lâu dài quan hệ Mỹ-Cuba.
But then, on Thanksgiving Day, 1999, there came an opportunity for the two governments to work together.Nhưng sau đó, vào Ngày Lễ Tạ ơn, năm 1999, đã có cơ hội để hai chính phủ hợp tác với nhau.
A five-year-old boy named Elian Gonzalez was found floating on an inner tube off the coast of Florida. His mother and ten others had drowned when a smuggler’s boat sank in the ocean. As a result, US authorities placed Elian in the care of his uncle. News soon broke, however, that Elian’s father was alive and well in Cuba.Một cậu bé 5 tuổi tên là Elian Gonzalez được tìm thấy trôi trên một chiếc ống bên trong ngoài khơi bờ biển Florida. Mẹ của anh và mười người khác đã chết đuối khi thuyền của một tên buôn lậu chìm dưới đáy đại dương. Do đó, các nhà chức trách Hoa Kỳ đã đặt Elian cho người chú của mình chăm sóc. Tuy nhiên, tin tức nhanh chóng được đưa ra, rằng cha của Elian vẫn sống khỏe mạnh ở Cuba.
A huge debate followed. On one side were Cuban-Americans who believed Elian should stay in the United States with his uncle. On the other were the Cuban and US government, who both believed Elian should be returned to his father in Cuba.Một cuộc tranh luận lớn sau đó. Một bên là những người Mỹ gốc Cuba tin rằng Elian nên ở lại Hoa Kỳ với chú của mình. Mặt khác là chính phủ Cuba và Hoa Kỳ, cả hai đều tin rằng Elian nên được trả lại cho cha anh ở Cuba.
In the end, the US Supreme Court ruled that Elian should be reunited with his father. Unfortunately, this led to Cuban-American riots and contributed to Vice President Al Gore’s losing the Florida vote – and as a result, the 2000 presidential election – to George W. Bush.Cuối cùng, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã phán quyết rằng Elian nên được đoàn tụ với cha mình. Thật không may, điều này đã dẫn đến bạo loạn Cuba-Mỹ và góp phần khiến Phó Tổng thống Al Gore thua cuộc bỏ phiếu ở Florida - và kết quả là cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 - vào tay George W. Bush.
Edit

#13. George W. Bush tiếp tục gây áp lực lên Cuba trong khi Obama thúc đẩy một kế hoạch khác.​

Back Channel to Cuba Key Idea #13: George W. Bush kept the pressure on Cuba while Obama promoted a different plan.# 13: George W. Bush tiếp tục gây áp lực lên Cuba trong khi Obama thúc đẩy một kế hoạch khác.
Much like his father, George W. Bush had no intentions of trying to negotiate or improve relations with Cuba.Giống như cha mình, George W. Bush không có ý định cố gắng đàm phán hoặc cải thiện quan hệ với Cuba.
Instead, during his time in office, he passed two initiatives that continued to put pressure on Castro’s government.Thay vào đó, trong thời gian tại vị, ông đã thông qua hai sáng kiến tiếp tục gây áp lực lên chính phủ của Castro.
On Cuban Independence Day, May 20, 2002, Bush announced the Initiative for New Cuba, another policy aimed at helping bring about a democratic regime change.Vào Ngày Độc lập của Cuba, 20 tháng 5 năm 2002, Bush công bố Sáng kiến vì một Cuba Mới, một chính sách khác nhằm giúp mang lại một sự thay đổi chế độ dân chủ.
Castro fired back at this initiative by organizing a petition declaring Cuba’s socialism “untouchable.” Eight million Cuban citizens signed it.Castro đã phản đối sáng kiến này bằng cách công bố một bản kiến nghị tuyên bố chủ nghĩa xã hội của Cuba là “không thể chạm tới”. Tám triệu công dân Cuba đã ký tên vào nó.
In October of 2003, Bush then announced the Commission for Assistance to a Free Cuba, which again tightened US travel restrictions on Cuba and promoted subversive actions to undermine the Castro government.Vào tháng 10 năm 2003, Bush sau đó công bố Ủy ban Hỗ trợ Cuba Tự do, một lần nữa thắt chặt các hạn chế đi lại của Hoa Kỳ đối với Cuba và thúc đẩy các hành động lật đổ nhằm phá hoại chính phủ Castro.
Eventually, in 2006, Fidel Castro’s health took a turn for the worse. And as he passed power to his brother Raul, US presidential hopeful Barack Obama began spreading a message of policy change toward Cuba.Cuối cùng, vào năm 2006, sức khỏe của Fidel Castro có chiều hướng xấu đi. Và khi chuyển giao quyền lực cho anh trai Raul, Tổng thống Mỹ Barack Obama đầy hy vọng bắt đầu truyền đi thông điệp thay đổi chính sách đối với Cuba.
In August of 2007, Obama spoke to a crowd in the traditionally anti-Castro Florida neighborhood of Little Havana and told them that the United States needed to change its failed Cuban policy of the past 50 years. Even here his message of change resonated, and Obama went on to win the state of Florida in the 2008 election.Vào tháng 8 năm 2007, Obama nói chuyện với một đám đông trong khu phố Little Havana truyền thống chống Castro Florida và nói với họ rằng Hoa Kỳ cần phải thay đổi chính sách Cuba đã thất bại trong 50 năm qua. Ngay tại đây, thông điệp về sự thay đổi của ông đã gây được tiếng vang và Obama tiếp tục giành chiến thắng ở bang Florida trong cuộc bầu cử năm 2008.
Shortly afterward, in 2009, his deputy assistant secretary of state, Bisa Williams, took an extensive tour of Cuba. Upon her return, she announced that the Obama administration could “see a way forward.”Ngay sau đó, vào năm 2009, phó trợ lý ngoại trưởng của ông, Bisa Williams, đã có một chuyến công du rộng khắp Cuba. Khi trở lại, bà tuyên bố rằng chính quyền Obama có thể “nhìn thấy một con đường phía trước.”
Obama once again opened the doors of cultural exchange between the two nations, making it easier for scholars and artists to travel between the two countries.Obama một lần nữa mở ra cánh cửa giao lưu văn hóa giữa hai quốc gia, giúp các học giả và nghệ sĩ đi lại giữa hai nước dễ dàng hơn.
He also improved telecommunication lines, but, as we’ll see in the next book summary, this wasn’t exactly in Cuba’s best interest.Ông cũng cải tiến các đường dây liên lạc, nhưng, như chúng ta sẽ thấy trong phần tóm tắt cuốn sách tiếp theo, điều này không chính xác vì lợi ích tốt nhất của Cuba.
Edit

# 14. Trong khi nhiệm kỳ đầu tiên của Obama không có nhiều cải thiện về quan hệ, nhiệm kỳ thứ hai của ông đã bắt đầu với những dấu hiệu tích cực.​

Back Channel to Cuba Key Idea #14: While Obama’s first term fell short on improved relations, his second term began with positive signs#14: Trong khi nhiệm kỳ đầu tiên của Obama không có nhiều cải thiện về quan hệ, nhiệm kỳ thứ hai của ông đã bắt đầu với những dấu hiệu tích cực.
Many, including the Cuban government, were hopeful about Obama’s announcements for a change of policy toward Cuba, but things didn’t exactly get off to a good start.Nhiều người, bao gồm cả chính phủ Cuba, đã hy vọng về những tuyên bố của Obama về việc thay đổi chính sách đối với Cuba, nhưng mọi thứ chính xác không có một khởi đầu tốt.
In the Obama administration's desire to improve telecommunications in Cuba was the seed of a covert cyber war.Trong chính quyền Obama, mong muốn cải thiện thông tin ở Cuba là mầm mống của một cuộc chiến tranh mạng bí mật.
Obama’s 2009-2010 budget included $20 million to continue “democracy promotion” in Cuba, which meant supporting anti-Castro bloggers and sending a man named Alan Gross into Cuba to strengthen a secret network among dissidents.Ngân sách giai đoạn 2009-2010 của Obama bao gồm 20 triệu đô la để tiếp tục “thúc đẩy dân chủ” ở Cuba, nghĩa là hỗ trợ các blogger chống Castro và cử một người tên là Alan Gross đến Cuba để củng cố mạng lưới bí mật giữa những người bất đồng chính kiến.
The secret quickly got out, however, and Gross was arrested in Cuba and sentenced to 15 years in prison for his subversive actions.Tuy nhiên, bí mật nhanh chóng bị lộ ra, và Gross bị bắt ở Cuba và bị kết án 15 năm tù vì hành động lật đổ của mình.
During 2010 and 2011, politicians such as former president Jimmy Carter and New Mexico Governor Bill Richardson visited Cuba in the hopes of restoring good faith between the two nations and releasing Gross – but Cuba wouldn’t budge.Trong suốt năm 2010 và 2011, các chính trị gia như cựu tổng thống Jimmy Carter và Thống đốc New Mexico Bill Richardson đã đến thăm Cuba với hy vọng khôi phục quan hệ tốt đẹp giữa hai quốc gia và giải thoát cho Gross - nhưng Cuba không lay chuyển.
However, as Obama’s second term began, signs of positive change began to emerge.Tuy nhiên, khi nhiệm kỳ thứ hai của Obama bắt đầu, những dấu hiệu thay đổi tích cực bắt đầu xuất hiện.
Secretary of State John Kerry and Secretary of Defense Chuck Hagel both took to the press and promised a change in policy.Ngoại trưởng John Kerry và Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel đều đã lên tiếng trước báo giới và hứa sẽ thay đổi chính sách.
In 2012, the Obama administration also released Rene Gonzalez, a member of the Cuban Five, a group of Cuban intelligence officers who were arrested in 1998 for conspiring against anti-Castro activists in Miami.Năm 2012, chính quyền Obama cũng trả tự do cho Rene Gonzalez, một thành viên của Cuban Five, một nhóm các sĩ quan tình báo Cuba đã bị bắt vào năm 1998 vì âm mưu chống lại các nhà hoạt động chống Castro ở Miami.
The United States also allowed postal service to resume between the two nations and resumed formal talks on migration issues.Hoa Kỳ cũng cho phép dịch vụ bưu chính nối lại giữa hai quốc gia và nối lại các cuộc đàm phán chính thức về các vấn đề di cư.
In return, the Cuban government allowed Alan Gross’s doctor to visit him in prison.Đổi lại, chính phủ Cuba cho phép bác sĩ của Alan Gross đến thăm anh trong tù.
But the most positive sign came in December of 2013. At a memorial service for Nelson Mandela, Raul Castro and Barack Obama stood in front of the press and publicly shook hands.Nhưng dấu hiệu tích cực nhất đến vào tháng 12 năm 2013. Tại lễ tưởng niệm Nelson Mandela, Raul Castro và Barack Obama đã đứng trước báo giới và công khai bắt tay nhau.
One could view this as a small gesture, but considering that for the past 50 years Cuban leaders and US presidents have had to resort to secret back channels in order to talk with one another, it was indeed an occasion of great significance.Người ta có thể coi đây là một cử chỉ nhỏ, nhưng xét rằng trong 50 năm qua các nhà lãnh đạo Cuba và tổng thống Mỹ đã phải sử dụng các kênh bí mật để nói chuyện với nhau, đó thực sự là một dịp có ý nghĩa lớn.
In Review: Back Channel to Cuba Book SummaryBạn đang đọc bản tóm tắt cuốn sách Điện đàm với Cuba tại dichsach.club
The key message in this book:Thông điệp chính trong cuốn sách này:
The United States and Cuba failed to come to terms with one another for many reasons. Primarily, neither side wanted to be seen as making concessions to please the other. As a result, negotiations repeatedly fell apart as Cuba refused to change its way of government and foreign policy, and the United States refused to appear as though it approved of Cuba’s behavior by lifting sanctions or treating it with respect. For the last 50 years, however, back-channel negotiations have continued, showing that progress may still be made.Hoa Kỳ và Cuba không thể đạt được thỏa thuận với nhau vì nhiều lý do. Về cơ bản, không bên nào muốn bị coi là nhượng bộ để làm hài lòng bên kia. Kết quả là, các cuộc đàm phán liên tục đổ vỡ do Cuba từ chối thay đổi cách điều hành chính phủ và chính sách đối ngoại của mình, và Hoa Kỳ từ chối có vẻ như đã chấp thuận hành vi của Cuba bằng cách dỡ bỏ các lệnh trừng phạt hoặc đối xử tôn trọng với nước này. Tuy nhiên, trong 50 năm qua, các cuộc đàm phán vẫn tiếp tục, cho thấy có thể vẫn đạt được tiến bộ.
 
Back
Top