Gần 100 năm trước, tiểu thuyết ba xu giá bằng sáu quả trứng vịt

MasterchiefsReborn

Senior Member
https://zingnews.vn/gan-100-nam-truoc-tieu-thuyet-ba-xu-gia-bang-sau-qua-trung-vit-post1415668.html

Giá bán sách thời gian 1945 trở về trước, tùy thuộc vào thể loại sách mà đắt rẻ khác nhau. Lại có sự khác biệt về giá do khoảng cách địa lý liên quan đến phí vận chuyển.

Tùy thể loại sách, tùy độ dày mỏng và khổ sách… mà sách thời gian 1945 về trước được định giá khác nhau. Có cuốn bán chỉ 2, 3 xu, có cuốn bán dăm hào. Thậm chí sách đặc biệt, bán với giá cao hơn nhiều.

Sách bán theo xu, theo hào

Thông tin từ hồi ức Nhớ gì ghi nấy cung cấp một vài chi tiết cụ thể. Theo đó, những cuốn sách được xuất bản từ năm 1915 trở đi, sách thơ thường được in với độ dày 64 trang, có giá bán là 0,25 đồng (2,5 hào), hoặc dao động quanh giá đó, như 0,18 đồng, 0,20 đồng hoặc 0,30 đồng.

“Giá sách tiểu thuyết đến 0,35 đồng đã ít, lên đến 0,5 đồng càng hiếm”, lời Nguyễn Công Hoan. Vẫn tiếp lời, cha đẻ Kép Tư Bền cho hay tiểu thuyết Nửa chừng xuân của Khái Hưng là cuốn đầu tiên bán với giá 7 hào. Sách được in đẹp, độc giả ngợi khen nên bán chạy.

Khảo sát giá sách trên các cuốn sách được in ấn theo thời gian, có những cuốn chỉ có giá 5 xu đến 10 xu, như loại Sách Hoa xuân 28 trang. Sách Hoa xuân số 5 “Gan tráng sĩ” của Hoàng Đạo Thúy, Sách Hoa xuân số 9 “Mối tử thù” của Nguyễn Lam Điền giá 5 xu. Về sau, giá tăng lên 10 xu như Sách Hoa xuân số 25 “Cái tranh” của Lê Vĩnh Tuy giá 8 xu, Sách Hoa xuân số 36 “Một đêm rùng rợn” của Lê Minh giá 10 xu…

1679928529927.png

Phi hùng kiếm số 1 của Phạm Cao Củng với bút danh Văn Tuyền, bán 3 xu mỗi cuốn. Ảnh: Đình Ba.

Dòng Sách Hoa mai thì giá mỗi cuốn là 0,20 đồng. Dòng Sách Lá mạ của Nhà xuất bản Đời Nay ngay trang bìa đã giới thiệu là “Sách giá trị. Bán giá rẻ”. Giá của mỗi cuốn ấn định là 0,25 đồng, đều thấy ở các cuốn Đoạn tuyệt, Gánh hàng hoa, Trống mái, Mai Hương và Lê Phong…

Giá cao hơn bắt gặp ở những sách khoảng 60 trang trở lên. Có thể lấy vài minh họa để tham khảo. Duyên phù sinh của Vita do Tố Tâm xuất bản năm 1942 dày 58 trang, giá 3,5 hào; Lão Tử của Ngô Tất Tố, Nguyễn Đức Tịnh soạn, Mai Lĩnh xuất bản năm 1942 dày 128 trang bán giá 8 hào…

Giá bán sách trên thị trường so với các mặt hàng như thế nào? Thông tin sau đây của Võ Phiến có thể cho biết chút ít về sự so sánh: “Hồi tiền chiến một cuốn “Sách Hồng” cho trẻ con giá bán 50 xu thì 1 xu mua được 2 cái trứng vịt”.

Có dạo tiểu thuyết ba xu lên ngôi, được in mỏng mỏng từng tập nhỏ. Mà ba xu thì theo nhà văn Vũ Bão, lúc nhỏ cũng là độc giả thường xuyên của món tiểu thuyết ba xu, so sánh rằng, ba xu có thể mua được ba cái bánh tôm, hoặc một đĩa thịt bò khô. Nó cũng như món quà vặt ăn sáng nên với giá đó, học trò có thể mỗi tuần mua một tập truyện kiếm hiệp, truyện trinh thám không lấy làm khó.

Phạm Cao Củng đã viết nhiều tiểu thuyết dạng ba xu kiểu này. Xem Võ hiệp kỳ án 17 tập do Phạm Cao Củng viết với bút danh Văn Tuyền. Tập 1 bán với giá đặc biệt chỉ 1 xu, về sau, mỗi tập được bán với giá 3 xu; Phi hùng kiếm 20 tập mỏng, cũng bán với giá 3 xu mỗi tập. Là sách mỏng, chưa đến 20 trang, lại có nhiều độc giả, nên Phi hùng kiếm in tới 7.000 bản mỗi tập.

Sách đặc biệt thì giá bán cao hơn so với bản thường. Thậm chí, có độc giả đặt tiền trước để mua sách bản đặc biệt trước khi nó được xuất bản. Như cuốn Thơ thơ của Xuân Diệu in năm 1938. Khi thông tin về 128 bản đặc biệt, NXB Đời Nay thông tin đây là loại sách mỹ thuật do họa sĩ Lương Xuân Nhị xếp đặt. “THƠ THƠ in ra 1 loại sách thường gồm có 1.000 bản giấy L.B.N. Voiron, 47 bản Vergé Baroque, và 1 loại sách quí mang chữ ký của tác giả, gồm có: 63 bản Chamois dành riêng cho bạn đặt tiền trước, đánh số từ C1 đến C63…”.

Cũng là sách của Xuân Diệu với tập Gửi hương cho gió do Nhà xuất bản Thời Đại thực hiện năm 1945. Sách in 2.000 bản thường. Đồng thời in thêm các bản đặc biệt trên những chất giấy tốt, thượng hạng khác nhau. Trong đó đối với 50 bản giấy lụa dó đánh số từ 1 đến 50 dành cho những bạn đọc đã đặt trước.

1679928554800.png

Thông tin in bản giới hạn với số lượng, chất liệu giấy của Gửi hương cho gió. Ảnh: Đình Ba.

Giá sách in nơi bìa 1

Là con nhà nghèo tận đất U Minh xa xôi, nhờ có học bổng toàn phần mà lên Cần Thơ học, Sơn Nam ham đọc sách báo, đã cảm nhận về giá sách dạo năm 1942 qua hồi ký Từ U Minh đến Cần Thơ: “Sách từ Hà Nội đưa vào khá nhiều, in trên giấy bản đen đúa, giá khá cao. Mấy đứa bạn yêu sách, nhờ gia đình khá giả đã chịu khó mua”.

Sách được viết, xuất bản và bán cho độc giả nên có giá là sự thường quá rồi. Nhưng cũng có sách được xuất bản, lại chỉ tặng chứ không bán. Các nhà thuốc thường in sách tặng không như thế. Và bên tôn giáo, cũng có nơi in sách để tặng. Sách Tinh thần Phật pháp đối với nhơn loại ngày nay của Trần Mật Tri được in 3.000 cuốn tại Nhà in Đuốc Tuệ ở Hà Nội năm 1937. Ngay bìa 1 in dòng chữ “Phát không khỏi trả tiền”.

Việc đề giá sách, nay ta thấy gần như mặc nhiên là ở bìa 4 của sách. Nhưng thời xưa, việc này tùy ý. Giá sách để trên bìa 1 thấy ở nhiều sách thời gian đầu thế kỷ XX. Tuồng hát cải lương Tống tữu Đơn Hùng Tín của tác giả Lưu Quan Mùi, Nhà in Xưa Nay thực hiện năm 1927, giá sách đề trên bìa là 5 hào.

Về sau, dần dà thấy rằng nhiều sách để giá ở bìa 4 từ nửa cuối những năm 1930 trở đi bên cạnh những sách để giá vẫn ở bìa 1. Xuất bản năm 1942, sách Nhật Bản văn hóa lược khảo của Tô Giang do Tân Đông Á tùng thư xuất bản vẫn để giá 7,5 hào trên bìa 1; Nam học Hán thư của Nông Sơn Nguyễn Can Mộng xuất bản năm 1943 có giá 2,2 đồng được in ở bìa 1. Với giá in ở bìa 4, tác phẩm Một ngày của Tolstoi của Kiều Thanh Quế do Tân Việt xuất bản năm 1942, giá in ở bìa 4 là 5 hào; Luật bóng tròn của Phan Thanh Phỉ in năm 1942, giá sách in nơi bìa 4 là 6 hào…

..........
 
Tiểu thuyết mới đọc gần đây có:

Lên đọc post của ông tác giả cười vl :D:D
NGHIỆN ĐẢNG
(Nhân ngày giỗ bố, cũng là nguyên mẫu nhiều nhân vật của tôi. Nhân tiểu thuyết “Sur le dos du buffle” tái bản và lấy lại tên gốc Lão Khổ. Bài dài nên tôi sẽ chia làm hai kỳ)


Ông tổ của chủ nghĩa cộng sản bảo: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân!” Có lẽ lúc ấy ông chưa hình dung ra rằng thứ học thuyết của ông mới thực sự gây nghiện cho một bộ phận nhân dân, khiến họ u mê, rồ dại còn hơn cả bị nghiện thuốc phiện.
Chẳng hạn như trường hợp bố tôi.
Ông chỉ nghiện thứ duy nhất, ấy là chủ nghĩa cộng sản, được ông đồng nghĩa với “đảng”. Vì thế, việc ông bị “khai trừ” khỏi đảng vào năm mới ngoài 40 tuổi, khiến ông luôn lên cơn “vật”, như người bị “vật thuốc!”
Đến mức đã vài lần bố nuôi ý định tự tử.
Cuối cùng ông chọn giải pháp cặm cụi viết những lá đơn “đòi đảng tịch”. Ông thức thâu đêm để viết, vẻ mặt đăm chiêu, sâu sắc, đầy tính chiến đấu của một đảng viên dù sa cơ lỡ vận, dù bị hàm oan, dù phải một mình đơn độc trong lòng địch (với bố tôi thì những cán bộ huyện, xã, thôn tham gia hất cẳng ông đích thị là địch) vẫn một lòng trung kiên, tin tuyệt đối vào sự sáng suốt của đảng! Mỗi lần ông ngồi xuống viết, tôi lại thấy vẻ mặt ông ánh lên niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng nay mai. Vì thế cứ được một tệp là ông lại bó cẩn thận, nhét sâu vào trong người, thắt dải rút thật chặt rồi lặn lội cùng chiếc xe đạp đi đâu đó.
Thường thì sáng sớm bố đi, khi chúng tôi chưa dậy, chiều tối mới về, kèm theo mấy chiếc bánh mỳ cho chúng tôi, hoặc ít cơm cháy khô cho lợn mà ông tiện đường mua mang về. Cũng có khi bố vắng nhà hai ba ngày. Chiếc xe đạp Thống Nhất bố mua theo tiêu chuẩn cán bộ xã, đã cùng ông mơ giấc mơ đại đồng không biết bao nhiêu lần trên khắp nẻo đường xã Hoàng Diệu, thì giờ đây lại theo ông cọc cạch đi đòi đảng tịch. Nhưng tôi chỉ biết đến thế. Còn ở trên tỉnh, trên trung ương bố gặp những ai, kêu ca gì với họ, họ nói gì với ông...thì tôi được biết rất ít.
Sau mỗi lần cặm cụi viết đơn, ông phờ phạc hẳn đi, mặt mũi phủ đầy bóng tối uất hận. Nhưng lần nào từ trên tỉnh, trên trung ương trở về mắt ông lại sáng lên một niềm hoan hỷ.
Cũng từ khi “mất đảng”, ông bắt đầu mắc căn bệnh nói một mình, đương nhiên là nói thầm. Miệng ông mấp máy không thành tiếng nhưng cơ mặt thì biểu lộ đầy đủ xúc cảm của ông, nghĩa là có ái, ố, hỷ, nộ… theo từng vấn đề mà ông đang diễn thuyết thầm. Có lần tôi thấy rõ miệng ông mím lại, y như lúc ông phát biểu trong một hội nghị và đang chì chiết cấp dưới. Chỉ có điều tôi phải nhắc lại là ông nói thầm và nói một mình. Tôi đã cố công giải mã xem bố đang nói gì và ông tưởng tượng trước mặt ông là ai, nhưng đó là điều vô cùng khó. Bởi vì ông sẽ dừng lại ngay nếu cảm thấy có người để ý.
Nhưng rồi một lần tôi cũng đã toại nguyện. Lần ấy quá say sưa nên ông quên mất là tôi đang ngồi ngay phía sau cửa để học bài. Tiếng thì thào phát ra từ miệng bố vọng vào tai tôi rất rõ. Và hoá ra đó là một bài phát biểu của ông, với giả định là ông đang trong buổi họp chi bộ. (Khi còn là đảng viên, chi bộ nơi bố tôi sinh hoạt, thường họp tại nhà tôi. Có hôm họ chỉ xoay quanh vấn đề xử lý một con trâu chết rét như thế nào. Sau mỗi lần như vậy tôi đều phải lau những bãi nước điếu khai kinh khủng bị xỉ ra vô tội vạ. Thậm chí có lần tôi còn được ngồi chầu rìa nghe mọi người kể chuyện tiếu lâm liên quan đến quan hệ vợ chồng). Bài phát biểu thì thào nhưng rất gay gắt ấy như sau:
-“Đồng chí Văn nói thế mà nghe được à? Bản thân đồng chí đã gương mẫu chưa? Đồng chí quên rằng chúng ta chỉ là công cụ của đảng, giống như cái cuốc cái mai, đảng sử dụng vào việc gì là quyền của đảng. Ngay cả nguyên tắc Mác-xít số một ấy đồng chí cũng còn không nhớ. Làm người cộng sản đồng chí phải thuộc lòng lời sau đây: “Tiên thiên hạ chi ưu, hậu thiên hạ chi lạc”. Hôm nay đồng chí tự ý như vậy, ngày mai đồng chí có thể xét lại các nguyên tắc...”
“Đồng chí Văn” mà bố nhắc tới là người mà tôi phải gọi bằng chú họ. Chú hiền lành, nghèo khổ, quanh năm mắt kèm nhèm với hai cục nhử vĩnh cửu bằng hạt đỗ đùn ra từ hai bên mắt đầy lông quặm và ai bảo thế nào chú cũng gật. Tôi nhớ có lần chú mặc quần đùi đến họp chi bộ, phô ra bộ gọng xương xẩu và tôi nhìn rõ cả “của quý” của chú chỉ bé bằng ngón tay. Chính bố tôi giới thiệu chú vào đảng. Vì thế mặc nhiên chú là người thuộc phe bố. Trước kia, ngày nào chú Văn cũng ghé qua nhà tôi để hút thuốc lào, nhưng việc chính là báo cáo bố tình hình thôn xóm. Nhưng từ khi bố mất chức, rồi lại bị khai trừ đảng thì không chỉ chú Văn mà hầu hết những cấp dưới một thời của bố tôi đều tránh gặp ông. Có lẽ họ ngại phải ngồi nghe ông mắng mỏ những kẻ đã hạ bệ ông, trong đó có nhiều người vừa được cất nhắc làm lãnh đạo. Điều đó khiến bố tôi thấy chua chát. Nhưng chua chát hơn là ông vĩnh viễn bị gạt ra ngoài những vấn đề trước đây ông luôn được hỏi ý kiến.

Thời gian đầu, ông khắc phục điều đó bằng việc gọi chú Văn đến bắt tường thuật lại. Ông gọi chú Văn đến không phải với tư cách cấp trên, mà với tư cách một ông anh họ, lại là người có công dìu dắt, nâng đỡ chú. Ông chăm chú nghe rồi cho ý kiến chỉ đạo để chú Văn theo đó mà đưa ra chi bộ. Nhờ thế mà tuy ngồi trong xó nhà nhưng ông vẫn không bỏ qua bất cứ nội dung nào chi bộ đem ra bàn. Tức là ông vẫn hiện diện ở các cuộc họp chi bộ thông qua chú Văn. Cơn thèm họp chi bộ, thèm được đấu đá, thèm được thể hiện tư cách đảng viên của bố chưa khi nào hạ hỏa. Nhiều lần bố tôi nói sa sả còn chú Văn thì cúi đầu ngồi nghe, hai tay không ngớt vò lên mái tóc cứng như nan chổi xể. Nhưng dần dần không phải lúc nào bố tôi cho gọi chú Văn cũng vội vã đến ngay như trước đây. Chú bắt đầu bỏ ngoài tai những lời trách cứ, móc máy, dọa nạt của bố tôi. Thỉnh thoảng tiện thể chú mới ghé qua và cũng chỉ chốc lát lại cáo lý do đứng dậy.
Sau những buổi sinh hoạt chi bộ tưởng tượng, ông lại càng có động lực để cặm cụi viết đơn, cặm cụi sửa chữa chiếc xe ngày càng xuống cấp để tiếp tục lên tỉnh, lên trung ương đòi đảng tịch! Ông coi là đó là việc quan trọng nhất phải làm trước khi chết. Vì nó có liên quan đến tương lai của chúng tôi.
Nhưng trước khi quyết giành lại cho chúng tôi thứ “tài sản tinh thần” đó, ông biến chúng tôi trở thành những người khốn khổ nhất trên trần gian. Ngày đó chưa có các phương tiện nhân bản như bây giờ, cho nên muốn có nhiều lá đơn giống nhau để gửi đến nhiều nơi, thì chỉ có cách duy nhất là chép tay. Bất cứ đứa nào, hễ chỉ cần biết viết là bố tôi bắt chép đơn. Đang học giữa mùa thi cũng phải bỏ đấy. Việc chép đơn cần kíp hơn. Có bận gần hết anh chị em tôi cùng nằm bò ra đất viết đơn đòi đảng tịch cho bố. Thậm chí ông còn huy động cả mấy đứa cháu, thứ bảy chủ nhật vào nhà tôi chép đơn kiện cho ông từ sáng đến tối. Những hôm đó nhà tôi như có việc đám. Mẹ tôi nhễ nhại mồ hôi, tất tưởi lo thịt gà, đồ xôi, nấu miến để mời những người chép đơn giúp. Đương nhiên là chúng tôi cũng được đánh ké.

Khó mà tìm được ai kiên nhẫn hơn bố tôi trong chuyện kiện tụng và tin vào cấp trên. Có lần tôi được bố “thưởng” cho chuyến đi chơi Hà Nội để “mở mang đầu óc”. Ông đưa tôi vào nhà bảo tàng quân đội, vào công viên Bách Thảo, đến những nơi thời trẻ ông từng sống hoặc qua lại khi làm thằng ở cho nhà phán Thịnh. Sau đó bố con tôi đi ăn phở và đó là lần đầu tiên tôi biết món phở.
Nhưng hoá ra phần lớn thời gian chuyến đi là để ông tìm đến những cơ quan mà ông gửi đơn.
Tại đó ông gặp một vài cán bộ đảng, những người trông rất lạnh lùng và khắc nghiệt. Tôi không bao giờ hiểu hết nội dung của những cuộc trao đổi ấy. Bố tôi đầy vẻ oan khuất nói lại những điều mà ông đã nói hàng ngàn lần, rằng ông không thể thiếu đảng, ông yêu đảng, cả đời ông hy sinh cho đảng. Nếu bảo ông giết chết vợ con vì đảng thì ông cũng không ngần ngại, vậy mà đảng lại nghi ngờ ông. Ông không làm gì sai mà sao tước mất danh hiệu đảng viên của ông, khiến ông sống không bằng chết. Người nghe gật đầu liên tục như đã thấu hiểu. Rồi thể nào bố cũng nhận được hàng lô những lời hứa. Ông đem chúng về nhà với một niềm tin là toàn đảng toàn dân toàn quân đang cùng châu đầu lại xem xét những lời kêu oan của ông!
Một câu hỏi mà ông hay hỏi nhất khi gặp cán bộ của đảng, nguyên văn như sau: “Thế chả nhẽ đảng để cho tôi cứ oan khuất thế này hay sao? Đảng ở đâu mà lời tôi kêu mãi không thấu”? Phần lớn người bị chất vấn chỉ cười, bày tỏ nỗi cảm thông hoặc kèm theo vài lời an ủi. Nhưng rồi trong một lần như vậy, ông cán bộ bị bố tôi chất vấn chắc là nhịn không đừng, vỗ vai bảo bố tôi: “Đảng ở ngay bên cạnh ông chứ ở đâu mà phải tìm cho mệt!” Bố tôi tỏ ra không hiểu, ông kia bèn cười thông cảm: “Thế ông nghĩ đảng là ai, ở trên trời chắc! Đảng là mấy ông cán bộ đang thi hành kỷ luật ông đấy thôi. Là mấy thằng mà ông vẫn gọi là “chó săn” ấy, đảng đấy chứ đâu”.

Tôi thấy mặt bố bạc phếch đi. Sao có thể như thế được? Với ông, đảng là một cõi rộng lớn, một đấng vô hình nào đó thiêng liêng đến mức không thể đụng chạm, sờ mó. Ngay cả nhắc đến cũng phải rất cẩn thận kẻo vô ý sàm sỡ. Vậy mà nay ông cán bộ kia lại bảo mấy kẻ phàm phu tục tử, vừa dốt vừa đểu, thối gan thối ruột vì thâm thù cá nhân, những kẻ ăn bẩn nói hỗn… là đảng, thì làm sao ông chịu nổi. Ông lắc đầu một cách ngoan cố với nụ cười chua chát không công nhận. Ông cán bộ kia cũng chỉ còn biết cười nhạt, thương hại cho kẻ có phần giống một gã dở người. Không một ông cán bộ nào mà bố gặp hôm đó tỏ ra thân thiện quý mến bố con tôi, nếu không muốn nói là ngược lại. Nơi họ làm việc có vẻ gì đó bí hiểm, lạnh lẽo, gợi đến lò mổ, phòng thí nghiệm, nhà xác… khiến cả khi đã ngồi ôm chặt bố từ phía sau, tôi vẫn không thoát khỏi cảm giác rợn tóc gáy của kẻ bị săn đuổi.
Cái không khí âm u, đáng sợ ấy sẽ còn tái hiện lại trong nhiều tác phẩm của tôi sau này.

(Còn nữa)
__________________________
Ngôi nhà, vốn cải tạo lại từ cái chuồng trâu cụ nội tôi để lại, là nơi sinh sống của chúng tôi đến tận năm 1995. Nó từng bị đồn thổi là "biệt thự" đến mức ông bí thư tỉnh ủy Hà Tây Nguyễn Xuân Trường phải về tận nơi để kiểm tra
 
Sách giờ đa phần bìa tốt, giấy tốt, in tốt. Nội dung không tốt. Lớn đến tiểu thuyết, nhỏ xuống truyện ngắn đều lời rườm ý mỏng, cấu tứ sơ xài, nội dung nông cạn. Nhà văn không thấy, chỉ toàn con nít vắt mũi chưa sạch, ảo tưởng dễ dãi... Mấy cuốn khoa học thường thức thì mượn danh “tri thức” bán giá cắt cổ. Còn lại là đống rác selfhelp....
Xã hội chạy theo đồng tiền, dân trí thấp khiến sách thành món hàng tiêu dùng hay là ngược lại nhỉ?
 
Back
Top