Sơ đồ vũ trụ của một xã hội cổ đại có dạng hình tròn. Một vị thượng đế tạo ra tất cả mọi thứ ở khởi nguyên vũ trụ, vẽ ra hình tròn. Thượng đế này, ngay sau đó, rời xa con người, trở thành một vị thần không làm gì. Mọi thứ sẽ hoạt động tuân theo bản thiết kế ban đầu mãi mãi, có thịnh suy nhưng tuần hoàn, có sinh diệt nhưng tuần hoàn, mọi thứ lặp đi lặp lại. Sơ đồ hình tròn, luân hồi nhà Phật là như thế, Sử Ký Tư Mã Thiên là như thế. Người Hy Lạp và người La Mã còn đi đến mức không tin vào pha diệt vong của một xã hội, mô hình vũ trụ của họ tĩnh đến mức trông như một điểm, các thần thoại không có ngày tận thế, các nguyên tố lửa nước bất diệt, sống là chết và chết là sống, một tinh thần khắc kỷ kỳ diệu.
Sử tính khởi nguồn từ Do Thái giáo, dân tộc kỳ lạ, tin vào vị Chúa toàn năng toàn thiện, tin vào một ngày Phát Xét kết thúc mọi thứ. Cái tinh thần đặc biệt này, chảy ngược lại con đường mà Alexander Đại đế đã hành quân, nhà chinh phạt đã Hy Lạp hoá phương Đông và Do Thái hoá phương Tây. Cái tinh thần Do Thái hoà trộn với tinh thần Hy Lạp ngay trong lòng La Mã, trung tâm của thế giới phương Tây cổ đại, như Trung Hoa là trung tâm của thế giới phương Đông cổ đại, nơi hoà trộn Nho Phật Lão. Kết quả của sự hoà trộn tinh thần Do Thái và tinh thần Hy Lạp là Kitô giáo. La Mã sụp đổ, đế chế tan rã, con người phương Tây đã mất sự ngây thơ về một thiên đường vĩnh cửu nơi trần thế.
Dòng máu mới của những tộc người phương Bắc đổ vào thế giới Latinh già cỗi, làm sống dậy một tinh thần phương Tây mới, tinh thần này đã chọn Kitô giáo làm xương sống. Hình tròn cổ xưa đứt đoạn, thành một sơ đồ như lò xo, có khởi đầu và kết thúc, mỗi vòng lặp sẽ khác nhau và không có sự lặp lại, sử tính gắn liền với tinh thần con người, một trục hoành được tạo dựng trong tư duy con người.
Tinh thần con người, từ rất lâu trước đó, muốn xác lập sự thiêng của giống loài mình, để chống chọi sự im lặng của tự nhiên, đã hình thành tôn giáo tính. Tôn giáo tính này, trước vũ trụ lạnh lùng, luôn đòi hỏi tạo lập một huyền thoại về thiên đường. Một thời kỳ đẹp đẽ, con người sống hạnh phúc và lương thiện. Con người, một giống loài bất lực, một con vật luôn chờ sống hoặc nhớ sống, không thể đặt huyền thoại thiên đường vào hiện tại, luôn chỉ có thể ở quá khứ hay tương lai. Ở quá khứ, đó là vườn địa đàng của Kitô giáo, đó là những tộc người nguyên thuỷ của Rousseau. Ở tương lai, đó là xã hội cộng sản của Marx, là thế giới Hồi giáo của Muhammad, là xã hội dân chủ thịnh vượng của tinh thần tư bản.
Ở các xã hội mà huyền thoại thiên đường được đặt vào tương lai, vẻ đẹp của con đường biến mất, chỉ còn vẻ đẹp của các điểm, hay nói đúng hơn, các cột mốc. Hạnh phúc con người là ở một thời điểm trong tương lai, cả xã hội phải giúp nhau để đến đó nhanh nhất có thể, mục đích biện minh cho phương tiện, hãy lao đến đó bằng bất cứ giá nào, chỉ cần đến đó thôi thì tất cả mọi người sẽ ngay lập tức hạnh phúc. Cuộc đời con người ở hiện tại bị hư vô hoá thành những cột mốc, thành một bậc thang cho một nhân loại hiện chưa tồn tại mà được hứa sẽ xuất hiện trong tương lai để vui hưởng hạnh phúc. Như vậy, sự văn minh sẽ biểu diễn theo trục hoành, và có đơn vị là xã hội, chỉ xã hội mới quan trọng, cái riêng hy sinh cho cái chung, cái cá biệt phải nhập vào cái phổ quát, sự cứu rỗi là cứu rỗi xã hội, giống loài.
Để không bị hư vô hoá, cần mở thêm một chiều mới cho tinh thần con người, tạo dựng một trục tung, trục của văn hoá. Khác với văn minh, văn hoá được biểu diễn theo trục tung, và có đơn vị là cá nhân, cái riêng độc lập cái chung, cái cá biệt vượt lên cái phổ quát. Ở chiều văn hoá, con người đạt được niềm vui của riêng mình, con người với tư cách cá nhân thoát khỏi thời đại mình, sự cứu rỗi chỉ cho riêng cá nhân.
Từ “culture”giống với từ “cult”, vì tôn giáo hoạt động cùng chiều với văn hoá, cũng ở trục tung. Một con người tu đạo, rồi đắc đạo là chỉ ở tư cách cá nhân, một sự giải phóng khỏi trần thế với một mình, cá nhân một mình đối diện với vũ trụ tôn giáo/Thượng Đế.
Nhưng dĩ nhiên, văn hoá và tôn giáo, là hai con đường rất khác nhau.