Lịch triều hiến chương loại chí Quyển XLII
Văn Tịch Chí
Lê triều thông sử, 30 quyển.
Bảng nhãn Duyên Hà Lê Quý Đôn soạn. Bài tựa rằng:
Nước Việt ta dựng nước, đặt quan làm sử, nối tiếp nhau đều dùng thể biên niên ký sự, như sử đời Lý của Văn Hưu, sử đời Trần của Phu Tiên, gọn gàng đúng đắn có thể dùng được, nhưng về điển chương của
một triều đại thì bỏ nhiều không thấy chép, người xem phải lấy làm tiếc. Tiên triều dựng nước, Thái Tổ là bực thần võ mở mang cơ nghiệp, Thái Tông là bực anh minh nối giữ cơ đồ, Thuần hoàng(Lê Thánh Tông) thì tài lược khác thường, đổi mới mọi việc, Hiến miếu(Lê Hiến Tông) thì tính trời khoan hậu, theo giữ nếp xưa, mô liệt huấn cáo rất nhiều, văn vật điển chương rất đẹp, không kém gì Trung Quốc, thế mà xét trong thực lục thì không thấy chép. Đến đời Hồng Đức, tế tửu Ngô Sĩ Liên chép từ đời Thuận Thiên(niên hiệu Lê Thái Tổ) đến đời Diên Ninh(niên hiệu Lê Nhân Tông) làm Tam triều bản kỷ, kể việc cũng kỹ và có mối rường. Bấy giờ kén chọn sử quan rất cẩn trọng, như bọn Lê Nghĩa chép thẳng giữ ngay, có khí tiết như cổ nhân, nhưng sách chép hàng ngày đó nay không còn nữa. Đến đời Hồng Thuận thì tổng tài Vũ Quỳnh nối chép từ đời Quang Thuận đến đời Đoan Khánh làm Tứ triều bản kỷ, sắc lệnh và điều cách thì hơi đủ, còn công việc bổ dụng và sớ tấu của các quan thì còn thiếu sót nhiều. Từ đời Hồng Thuận trở đi, đến đời Dương Đức buổi đầu trung hưng, các sử thần biên chép tiếp theo, tra xét góp nhặt không được rộng, ý nghĩa và thể lệ chép chưa tinh. Công việc hàng hơn trăm năm, mà biên soạn vốn không phải một người, thế mà chép sơ sài như thế.
Đại để phép làm sử là phải nhặt đủ không bỏ sót, để cho người ta sau khi mở sách ra xem, rõ được manh mối, biết được đầu đuôi, tuy không được mắt thấy tai nghe, mà rõ ràng như chính mình được thấy. Hãy nói qua những điều đại yếu như: điềm trời lành giữ, vận đất đổi thay, phải chép; việc vua đi ra, việc sách lập hậu phi, thái tử, phải chép; chiếu lệnh ban xuống, tể thần tâu lên, sớ của các quan, phải chép; việc dùng hay bãi các công khanh thị tụng, việc bổ hay đổi các trấn vệ tướng thần, việc sai phái các quan văn võ trong ngoài, việc thăng thưởng các tôn thất huân thích, đều phải chép thực cả. Bên trong thì sự dựng lên hay bỏ đi của pháp độ, như các việc tuyển cử, quan chế, binh chính, quốc dụng, binh quyền, tiền tệ; bên ngoài thì việc bang giao tốt hay xấu, như các việc sai sứ sang Trung Quốc, việc nước Chiêm, nước Lào cống hiến, giấy tờ qua lại, phẩm vật ban cho, cả đến những việc đánh Chiêm Thành, Bồn Man, Lão Qua; lễ nhạc diên cách, thì như các việc tế Trời Đất, tế Tôn miếu, tế Núi Sông, điệu múa bài nhạc, nghi lễ trong triều và trong quân; dòng dõi, danh hiệu thì như việc phong tước họ ngoại họ nội, dòng dõi nhà vua cùng là dòng họ công thần, tuy là việc thường, cố nhiên không nên chép rườm, nhưng nếu có việc gì thuộc về nghị luận quan trọng và chế tác to lớn thì đều phải theo từng việc mà chép đủ ngày tháng. Theo thể lệ ấy mà nói thì sử cũ chép mười phần chưa được một phần, người muốn tìm xét đời xưa, muốn bàn bạc việc nước, còn biết khảo cứu vào đâu? Xem trong 21 bộ sử [Nhị thập nhất sử], như các triều Chu, Tề, Lương, Trần ở một xó hẻo lánh, chính sự kém cỏi, làm vua không lâu, chỉ được 50 năm, hoặc hơn 20 năm, 30 năm, thế mà những học giả(người Trung Quốc) về sau còn tìm tòi khảo luận, chép làm sử của một đời, để cho sự nghiệp văn hóa được rỡ ràng đến đời sau. Huống chi nước Đại Việt ta trị bình hơn trăm năm, xây dựng sửa sang rõ rệt như thế, mà sử sách biên chép thì lại vắng vẻ như thế, chẳng là đáng thẹn với đời trước ru. Tôi không tự xét mình kém cỏi, muốn bắt chước thể lệ ký truyện, chép theo sự loại, chia ra từng điều và tóm lại một lối, lại phụ thêm những lời bàn tán thuật bày theo ý riêng mình. Về các chí thì phỏng theo thể lệ các sách thư, Tùy thư, Tấn thư, chép thêm cả chính sử các đời Lý Trần trên cách lệ triều trước, soạn thành thông sử, để làm đại điển của một đời. Hiềm vì ngày nay cách triều trước đã mấy trăm năm, sách nát thẻ gãy đã tản mát từ lâu, tập truyền của các cố gia cũng không dò hỏi khảo cứu được, muốn thành công việc biên soạn thực là rất khó.
Vả chăng tiên nho làm sử, đều tập hợp mọi sách, chọn nhặt sửa chữa, rồi mới làm nên, như Thái sử công(Tư Mã Thiên) phải tìm tòi các sách chứa trong hòm vàng nhà đá mới làm thành bộ Sử ký; Ban Cố noi theo lại lấy cả ở các sách của Lưu Hâm và Ban Bưu mới làm thành bộ Hán thư; cả đến bọn Trần Thọ, Phạm Việp, Âu Dương Tu cũng đều thế cả. Thế mà truyện chí của ta, từ trước đến giờ chưa có một mảnh giấy hay một chữ nào. Nay bắt đầu biên soạn thì thực lục lại chép sơ lược sai lầm, chưa đủ căn cứ hoàn toàn vào đấy, lại phải tìm cả các sách tạp, các bản sót, các biệt truyện, các dã sử, văn khắc vào bia vào đỉnh, gia phả của các thế gia, cùng là các bản sao chép của các học giả Bắc triều. Phải trái bù nhau, nửa sai nửa đúng, tìm hỏi đã khó, giám biệt lại cũng không dễ.
*Từ đây về sau là lời bình phẩm nhận xét về sách Lê triều thông sử của Lê Quý Đôn do ông Phan Huy Chú viết:
Xét: Thể thức làm sử, không có chí truyện thì không thể chép được đầy đủ. Sự tích các đời Bắc triều mà được sáng rõ cho đời sau, thật là nhờ có Nhị thập nhất sử biên chép không sót việc gì. Sử của nước ta chỉ dùng thể biên niên, công việc của các triều chỉ chép tóm tắt, cho nên đầu đuôi việc diên cách, gốc ngọn việc thành bại, khó lòng khảo cứu, cả đến điển chương chế độ cũng không khảo chứng vào đâu được.
Người bác cổ ai chẳng tức bực mà muốn bổ sung!
Sách này của Lê công, kỹ lưỡng đầy đủ, đáng làm toàn sử cho một đời. Hiềm vì từ trung hưng về sau khi chép còn thiếu công việc soạn thuật buổi đầu về bản triều, không thể không để chờ đợi người sau.