1. Lai lịch
Kinh dịch bắt đầu từ thời Phục Hy, 1 ông vua về đời thần thoại trong sử Tàu, cũng gọi là Bảo Hy. Lúc ấy có con long mã, lưng khoáy thành đảm, từ 1 - 9, vua coi những khoáy đó vạch thành nét.
- Vạch 1 nét làm khí Dương ( _ ), vạch 2 nét làm khí Âm ( _ _ ), 2 vạch này gọi là Nghi. (lưỡng Nghi)
- Trên mỗi Nghi thêm 1 nét nữa, thành ra 4 cái 2 vạch, gọi là 4 Tượng. (tứ Tượng)
- Trên mỗi Tượng lại thêm 1 vạch nữa, thành ra 8 cái 3 vạch, gọi là 8 Quái. (bát Quái)
- Sau đó chồng Quái nọ lên Quái kia, thành ra 64 cái 6 vạch, gọi là 64 Quẻ.
Thời này, Kinh dịch vẫn chỉ là vạch, chưa có tên hiệu hay chữ nghĩa.
Sang đầu nhà Chu, Văn Vương bắt đầu đặt tên và diễn lời ở dưới mỗi quẻ để nói sự lành dữ, như
- "Nguyên hanh lợi trinh" trong quẻ
Kiền
- "Nguyên hanh lợi tấn mã chi trịnh" ở quẻ Khôn...
Lời này gọi là
Lời Quẻ (quái tử) hay
Lời Thoán (Thoán từ).
Kế đó, Cơ Đán - tức Chu Công, con thứ Văn Vương - theo số vạch mà chia mỗi quẻ làm 6 phần, mỗi phần gọi là 1 hào, và mỗi hào đều có chú thích để nói sự lành dữ của từng hào, như câu
- "Sơ Cửu: Tiềm long vật dụng" hay câu
"Cửu Nhị hiện long tại điền", trong quẻ
Kiền
- "Sơ Lục lý sương kiên băng chí" hay
"Lục Tam: Hàm chương khả trinh" trong quẻ
Khôn...
Lời này gọi là lời
Hào, hay còn gọi là lời
Tượng.
Tiếp đó, Khổng Tử lại soạn ra 6 thứ nữa, là
- Thoán truyện, gồm Thượng Thoán và Hạ Thoán
- Tượng truyện, gồm Thượng Tượng và Hạ Tượng
- Văn ngôn
- Hệ từ truyện, gồm Thượng Hệ và Hạ Hệ
- Thuyết quái
Tất cả 10 thiên, gọi là
Thập Dực (mười cánh).
Sáu thứ này tuy đều mở rộng ý nghĩa Kinh dịch, nhưng mỗi thứ có 1 tính cách.
- Thoán truyện dịch "Lời Thoán nói rằng"
- Tượng truyện dịch "Lời Tượng nói rằng"
- Văn ngôn chuyên quái "Kiền, Khôn"
- Hệ từ nói về ý nghĩa trong việc làm Kinh dịch của Chu Công
- Thuyết quái nói về nghiệp, tượng và sự biến hóa của 8 quẻ
- Tự quái giải thích tại sao quẻ này ở dưới quẻ kia
- Tạp quái nói ý nghĩa vụn vặt của các quẻ.
Nói chính văn Kinh dịch, tức là gồm cả: Vạch quẻ, Lời quẻ, Lời hào và Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn, Hệ từ truyện, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái.