• Shopee đêm nay có mã cho ngày 5/5

Ai đã "phát minh" ra stress: Tác nhân của 80% bệnh tật trên đời, bao gồm cả ung thư?

HàLan™

Senior Member
Người ta nói đùa rằng, trước khi Isaac Newton phát minh ra lực hấp dẫn, những quả táo đã không rơi xuống đất, còn con người thì có thể bay. Thật ngớ ngẩn! Nhưng có một sự thật: Trước khi "stress" được định nghĩa bởi Hans Selye vào năm 1936, chỉ có những sợi dây chun mới bị căng thẳng.

Plato, triết gia người Hy Lạp cổ đại, một trong ba người đàn ông xuất hiện nhiều nhất trên những bức tượng bán thân bằng đá cẩm thạch từng nói rằng: Cơ thể con người là một tổng hòa giữa hai phần thân và tâm.

"Nhiều căn bệnh không thể chữa khỏi được, bởi các bác sĩ không hiểu thế nào là cái toàn thể. Họ coi thân và tâm là hai thứ tách rời nhau mà không biết rằng thân không thể khỏe mạnh nếu tâm không khỏe và ngược lại. Đây là một sai lầm nghiêm trọng trong việc chữa trị bệnh tật cho con người", Plato cho biết.

Theo ông, một người muốn có sức khỏe về mặt thể chất thì bản thân tâm lý của họ phải khỏe mạnh. Và ngược lại, sức khỏe thể chất cũng quyết định đến sức khỏe về mặt tâm lý. Điều trị một căn bệnh đồng nghĩa phải điều trị cả bệnh lý và tâm lý của người bệnh.

1-1711097593449805612662.png



Thật khó tin khi những điều này đã được Plato nói ra trong những cuộc đối thoại của mình vào khoảng năm 300 Trước Công Nguyên. Bởi hơn 2.000 năm sau, tư tưởng của ông vẫn còn nguyên giá trị.

Ngày càng có nhiều cơ chế sinh học qua lại giữa tâm lý và bệnh tật được phát hiện. Chẳng hạn như người gặp chấn thương nặng có thể rơi vào một tình trạng gọi là trầm cảm sau sang chấn. Ngược lại, trầm cảm vốn chỉ được coi là một cảm xúc u buồn, bây giờ đã được công nhận là một rối loạn tâm thần gây ra vô số vấn đề về thể chất.

Một ví dụ đơn giản và phổ biến hơn mà nhiều người đang gặp phải, đó là stress. Các bác sĩ cho biết căng thẳng, lo âu có thể làm trầm trọng thêm nhiều bệnh lý về thể chất, bao gồm tình trạng cao huyết áp, viêm loét dạ dày, trào ngược thực quản và bệnh hen suyễn…

Ngược lại, stress đã được phân loại như một yếu tố nguy cơ cho bệnh tim mạch, tương đương với hút thuốc lá, bệnh béo phì và nồng độ mỡ cao trong máu. Các giáo trình trong trường y ngày nay đổ lỗi cho căng thẳng là yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra từ 80%-90% tất cả các loại bệnh tật trên đời.

Ung thư, hóa ra, không nằm ngoài con số đó.

2-17110975934801427566285.png



Một nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Cancer Cell tuần trước đã lần đầu phát hiện ra một cơ chế sinh học đằng sau mối liên hệ giữa căng thẳng và bệnh ung thư, một bóng ma mà các bác sĩ đã cất công săn lùng trong suốt hàng thập kỷ.

Theo đó, căng thẳng mạn tính tạo ra một môi trường vi mô cho phép tế bào ung thư tập hợp lại và "làm tổ". Stress có thể thúc đẩy ung thư di căn từ vị trí này sang vị trí khác nhanh gấp 4 lần bình thường. Và các nhà khoa học đang nghi ngờ, nó cũng góp phần vào quá trình khởi phát của căn bệnh.

Vậy thì, làm thế nào để bạn biết mình có đang căng thẳng quá mức, đến nỗi có thể tự làm tăng nguy cơ mắc bệnh của bản thân hay không? Một bảng hỏi cuối bài viết này sẽ cho bạn câu trả lời.

Nhưng trước khi vuốt xuống dưới cùng, hãy tìm hiểu xem: Các nhà khoa học đã tìm thấy gì sau gần 9 thập kỷ nghiên cứu căng thẳng của họ?

3-1711097593483140931990.png


Người ta nói đùa rằng, trước khi Isaac Newton phát minh ra lực hấp dẫn, những quả táo đã không rơi xuống đất, còn con người thì có thể bay. Thật ngớ ngẩn. Nhưng có một sự thật: Trước khi "stress" được định nghĩa bởi một bác sĩ người Hungary tên là Hans Selye, chỉ có những sợi dây chun mới bị căng thẳng.

Đó là bởi căng thẳng (stress), vốn dĩ, chỉ là một khái niệm vật lý. Nó đại diện cho sự biến dạng của một vật gây ra bởi các tác động bên ngoài vào vật đó, hoặc bản thân tác động nội sinh của chính vật thể.

Khi một chiếc lò xo bị vật nặng kéo căng ra, các nhà vật lý nói rằng nó đang bị căng thẳng. Khi có quá nhiều xe cộ đi qua một chiếc cầu khiến nó bị võng xuống, các kỹ sư thiết kế nói rằng chiếc cầu đang "stress" nặng.

Trụ bê tông của một ngôi nhà cao tầng vừa được đổ xong, khi bê tông ngót lại gây ra lực nén bên trong cấu trúc của nó, những kiến trúc sư nói rằng trụ bê tông đang căng thẳng.

Các nhà vật lý có hẳn một công thức để tính toán căng thẳng: σ = F/A. Trong đó Sigma là stress, F là lực tác dụng lên diện tích mặt cắt A để tạo ra căng thẳng cho vật thể. Đơn vị của stress là N/m2.

4-17110975934882005906105.png


Đó là tất cả những gì mà loài người biết về căng thẳng cho đến tận thế kỷ 19. Bạn có thể nói một sợi dây, một cây cầu, một ngôi nhà bị căng thẳng. Không ai nói người bị căng thẳng. Không ai làm thí nghiệm kéo giãn, uốn cong hoặc vặn xoắn người, rồi đi tính stress của họ.

Mọi chuyện chỉ bắt đầu thay đổi vào năm 1926, sau khi Hans Selye, một chàng sinh viên trẻ người Hungary đang theo học ngành y khoa tại Đại học Prague phát hiện ra một hiện tượng kỳ lạ.

Selye khi đó đang thực tập tại một phòng khám và nhiệm vụ của cậu chỉ là ngồi ngoài, hỏi thăm các triệu chứng của bệnh nhân, rồi chép lại tất cả để đưa chúng cho bác sĩ. Hàng chục bệnh nhân đã đến phòng khám của cậu mỗi ngày và hàng trăm bệnh nhân đã tới trong suốt kỳ thực tập đó.

Selye nhận thấy rằng, dù mắc bất cứ bệnh gì, tất cả các bệnh nhân cũng đều chia sẻ chung một tập hợp các triệu chứng: mệt mỏi, chán ăn, sụt cân, họ thích nằm hơn là đứng và không có tâm trạng để làm việc…

Vì các triệu chứng quá chung chung, bác sĩ yêu cầu Selye bỏ những triệu chứng này ra khởi ghi chú để khỏi làm mất thời gian và tốn kém giấy mực.

Đó là thập niên 1920, khi các nguyên tắc chẩn đoán, được nhà nghiên cứu bệnh học người Đức Rudolf Virchow phát biểu vào cuối thế kỷ 19, đã trở thành chuẩn mực. Các sinh viên y khoa được dạy rằng họ chỉ nên tập trung vào tập hợp triệu chứng đặc trưng cho mỗi căn bệnh, thứ mà chỉ một căn bệnh mới có và vì vậy có ý nghĩa chẩn đoán.

Nhưng khi Selye nhìn vào những triệu chứng mệt mỏi mơ hồ của bệnh nhân, anh đã lập luận rằng: Nếu như Virchow đúng, vậy thì phải có một thứ gì đó không phải bệnh tật đã gây ra tất cả những triệu chứng thường thấy của bệnh nhân. Nó có thể làm nặng thêm căn bệnh mà mọi người đang mắc phải, hoặc thậm chí là nguyên nhân chung gây ra đủ mọi bệnh tật trên đời.

Để đặt tên cho yếu tố mờ ám này, Selye gọi nó là "hội chứng bệnh tật chung".

Anh chia sẻ ý tưởng của mình với một số bạn bè và bác sĩ hướng dẫn, nhưng không một ai ủng hộ Selye theo đuổi nghiên cứu nó, những triệu chứng bị gọi là mơ hồ.

Và suy cho cùng, Selye khi đó mới chỉ là một sinh viên năm hai, chân ướt chân ráo bước vào ngành. Còn Virchow đã xây dựng được hẳn một hệ tư tưởng thống trị nền y học. Người ta thậm chí phong cho ông ấy là "Giáo hoàng trong ngành y", bên cạnh dang xưng "cha đẻ của bệnh lý học hiện đại".

Tuân thủ trường phái Virchow, nghĩa là các bác sĩ chỉ quan tâm đến những triệu chứng đặc hiệu có thể sử dụng để chẩn đoán ra một căn bệnh. Những dấu hiệu này thậm chí cụ thể tới mức bác sĩ sẽ đi tìm những khác biệt trong từng tế bào giữa người bệnh này với người bệnh khác - giống như xét nghiệm sinh thiết mà chúng ta thấy ngày nay.

Không ai quan tâm đến những triệu chứng chung chung thoáng qua bên ngoài của bất kỳ bệnh tật gì như Selye mô tả. Họ nghĩ thật mất thời gian khi làm điều đó. Chẳng lẽ, một bệnh nhân đến bệnh viện khám và bác sĩ nói rằng:

- Chúng tôi đã xem xét các triệu chứng của anh. Anh nói rằng mình bị mệt mỏi, chán ăn, thích nằm hơn là đứng và không có tâm trạng làm việc… Chúng tôi đã có đủ bằng chứng kể kết luận anh mắc "hội chứng bệnh tật chung".

- Nhưng hội chứng bệnh tật chung là gì, thưa bác sĩ?

- Nó có nghĩa là anh đang bị bệnh.

8-1711097593557111840764.png


Mọi chuyện bẵng đi một thập kỷ, Hans Selye 10 năm sau đã trở thành một phó giáo sư tại Đại học McGill và làm việc trong phòng thí nghiệm cùng với thầy hướng dẫn anh, giáo sư James Bertram Collip. Bộ đôi đang nhắm đến mục tiêu săn lùng một loại hormone giới tính nữ mới mà chưa ai tìm ra trước đó.

Để làm được điều này, giáo sư Collip giao cho Selye một nhiệm vụ. Anh phải liên tục chất xuất các chất hóa học khác nhau ra từ buồng trứng của những con bò cái. Sau đó, định kỳ mỗi ngày, Selye tiêm những chất hóa học này vào cơ thể chuột cái và quan sát những thay đổi có thể xảy ra.

Sau khi lặp đi lặp lại thí nghiệm rất nhiều lần, Selye thấy rằng, dù anh có tiêm bất kỳ chất hóa học nào vào cơ thể những con chuột, chúng cũng đều biểu hiện một loạt các triệu chứng giống hệt nhau như sưng vỏ tuyến thượng thận, teo tuyến ức và loét dạ dày tá tràng.

Ngay cả khi không tiêm hóa chất mà chỉ tiêm nước muối sinh lý, những con chuột cũng trải qua các triệu chứng giống hệt như vậy. Selye lập luận rằng không phải hóa chất, chính quy trình thí nghiệm: Bắt lũ chuột, tiêm, làm đau chúng, rồi thả chúng trở lại lồng, liên tục lặp đi lặp lại từ ngày này qua ngày khác, đã khiến lũ chuột bị bệnh.

Đó là khoảnh khắc "eureka" mà ký ức của 10 năm trước hiện về, Selye nghi ngờ rằng những con chuột này cũng đang trải qua "hội chứng bệnh tật chung". Thế là anh quay sang tìm cách tái tạo những triệu chứng này, bằng cách thiết kế ra một loạt quy trình gây khó chịu liên tục cho lũ chuột.

9-17110975935781874485131.png


Ban đầu, Selye cho lũ chuột chạy mệt lả trên vòng đu quay của chúng. Sau đó, anh thả chúng vào chậu nước, ép chúng bơi liên tục. Trong một lần, Selye nảy ra ý tưởng ném lũ chuột của mình lên mái nhà.

Và thế là vào mùa đông khắc nghiệt năm 1936 ở Montreal, người ta đã thấy cả một đàn chuột chết cóng trên nóc phòng thí nghiệm tại Đại học McGill, chỉ để phục vụ thí nghiệm của con người.

Selye phát hiện ra rằng bất kể khi ông làm điều gì khiến lũ chuột thấy khó chịu kéo dài, chuột cũng sẽ lặp lại các triệu chứng mệt mỏi giống như con người. Chúng mệt mỏi, chán ăn và sụt cân.

Và kỳ diệu thay, giải phẫu tử thi cho thấy tuyến thượng thận của chúng cũng tăng hoạt động, hạch bạch huyết của chúng cũng bị teo và dạ dày tá tràng của chúng cũng bị loét.

Bởi các hình thức tra tấn tác động từ bên ngoài vào chuột rất đa dạng, Selye đã mượn từ "căng thẳng" (stress) của các nhà vật lý để mô tả tình trạng này.

Ông là người đầu tiên nói động vật có vú bao gồm cả con người có thể bị căng thẳng, một tình trạng mà chúng ta trải qua khi chịu áp lực về mặt thể chất, tinh thần hoặc cảm xúc. Và đó là năm 1936, kỷ nguyên căng thẳng của loài người chính thức bắt đầu.

10-1711097593601172568334.png


Sau mô tả đầu tiên về căng thẳng của Selye, ông bắt đầu tìm hiểu những cơ chế sinh học đằng sau phản ứng căng thẳng ở chuột và cả ở con người. Selye nhận thấy rằng bệnh tật chắc chắn là một yếu tố tạo ra căng thẳng.

Nhưng ở chiều ngược lại, căng thẳng có gây ra bệnh tật hay không? Các thí nghiệm trên chuột và theo dõi phản ứng ở người cho biết câu trả lời, hóa ra là: Có.

11-1711097593669933015998.png


Cơ thể người và chuột phản ứng với các tác nhân gây căng thẳng bên ngoài bằng cách giải phóng một loạt các hormone từ tuyến yên, tuyến giáp và tuyến thượng thận như epinephrine, norepinephrine và cortisone – về sau các hormone này được gọi chung là hormone căng thẳng.

Vì hormone điều hành rất nhiều hoạt động của cơ thể, ngay sau khi được bơm vào máu, chúng sẽ làm tăng huyết áp, tăng nhịp tim và tăng lượng đường trong máu. Vì vậy khi bị đặt vào tình huống căng thẳng, bạn sẽ thấy mình thở nhanh hơn, cơ bắp siết chặt hơn, đồng tử giãn ra, bạn sẽ nhìn thấy rõ hơn và thính giác trở nên sắc bén hơn.

Thực ra, các phản ứng này được gọi là "fight-or-flight" (chống trả hay bỏ chạy) vốn được tạo hóa lập trình cho động vật có vú, nhằm đối phó với các tình huống nguy hiểm. Căng thẳng nhất thời, hay còn gọi là căng thẳng cấp tính là một phản ứng có lợi.

Trong quá khứ, nó đã giúp tổ tiên chúng ta chiến đấu và chạy trốn khỏi kẻ thù. Căng thẳng cấp tính giúp con người tập trung hơn, và phản ứng nhanh hơn, hiệu quả hơn với các tình huống nguy hiểm, giả dụ khi có một con gấu nhảy bổ vào tổ tiên chúng ta, hoặc có một chiếc xe máy lao vào bạn khi bạn đang đi bộ tắt qua Ngã Tư Sở.

12-1711097593673112578453.png


Phản ứng "fight-or-flight" đã giúp tổ tiên của chúng ta chiến thắng trong quá trình chọn lọc tự nhiên để tiến hóa. Thế nhưng, một cơ chế sinh học có ích trong thời tiền sử chưa chắc đã có ích trong xã hội hậu công nghiệp – khi loài người phát triển quá nhanh và tạo ra quá nhiều tác nhân gây căng thẳng cho chính mình.

Ví dụ, việc bị cảnh sát giao thông dừng xe có thể ngay lập tức kích hoạt phản ứng "fight-or-flight", nhưng trong cả hai trường hợp, đánh lại cảnh sát hay bỏ chạy đều sẽ chỉ làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn.

Con người đã loại trừ phần lớn động vật hoang dã có thể tấn công mình, ít nhất là trong các thành phố hiện đại. Nhưng cuộc sống công nghiệp lại đang phơi ra trước mặt chúng ta nhiều yếu tố gây căng thẳng hơn bao giờ hết, từ ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, không gian sống và làm việc chật chội trong đô thị, tin tức về những kẻ giết người trên mạng xã hội cho đến những áp lực tài chính, áp lực đồng trang lứa…

Các điều kiện căng thẳng này biến chúng ta thành những con chuột trong lồng của Selye, bị nhốt chặt, bị bỏ lạnh hoặc bị bắt phải làm việc liên tục… Tình trạng này được định nghĩa là sự căng thẳng mạn tính.

Nghiên cứu đã chỉ ra việc tích lũy căng thẳng kéo dài khi cơ thể liên tục tiết ra epinephrine, norepinephrine và cortisone sẽ dẫn tới những rối loạn. Nó làm suy yếu hệ miễn dịch của chúng ta, gây ra các vấn đề về tiêu hóa, huyết áp và bệnh tim mạch.

Căng thẳng mạn tính đã được chứng minh làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đường hô hấp, làm chậm quá trình lành lại của vết thương, tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer.

13-17110975936772008342993.png


Những đứa trẻ lớn lên trong điều kiện bị căng thẳng mạn tính, ví dụ như cha mẹ li hôn, bị lạm dụng, điều kiện kinh tế khó khăn thường sẽ phát triển kém. Vào giai đoạn sau của cuộc đời, những đứa trẻ này sẽ có nguy cơ cao mắc trầm cảm, bệnh tim mạch và cả tiểu đường.

Một vòng luẩn quẩn sau đó sẽ lặp đi lặp lại, căng thẳng gây ra bệnh tật, rồi bệnh tật lại gây ra căng thẳng. Nó khiến các nhà khoa học hậu bối khi nhìn vào mô hình của Selye phải mô tả thứ mà ông phát hiện ra: "Căng thẳng ngoài việc là chính nó, còn là nguyên nhân gây ra chính nó và hệ quả của chính nó".

14-1711097593680606496861.png


Trong khi mối liên hệ giữa căng thẳng và nhiều căn bệnh như tim mạch và huyết áp đã được thiết lập rõ ràng, căng thẳng liên quan như thế nào đến ung thư vẫn là một câu hỏi mà các nhà khoa học đang cố gắng giải thích.

Ngay từ thế kỷ thứ hai, bác sĩ người Hy Lạp Galen đã lưu ý rằng những phụ nữ u sầu có nhiều khả năng mắc bệnh ung thư hơn những người vui vẻ. Các bác sĩ ở thế kỷ 18 thường lưu ý rằng những gián đoạn nghiêm trọng trong cuộc sống của một người, thứ dẫn đến rối loạn cảm xúc và khiến họ tuyệt vọng, dường như xảy ra trước cả khi bệnh ung thư khởi phát.

Lập luận này một lần nữa được nhắc lại vào năm 1970, bởi một bác sĩ người Anh tên là James Paget. Sau khi khảo cứu hồ sơ của những bệnh nhân ung thư, ông nhận thấy hầu hết họ có những cảm xúc tiêu cực như lo lắng, thất vọng, trầm cảm. "Tôi nghi ngờ rằng chính những cảm xúc này đã thúc đẩy sự phát triển của ung thư", Paget nói.

15-17110975936932078973046.png


Hơn một thập kỷ sau đó, Lawrence LeShan, một bác sĩ người Mỹ thực hiện một khảo cứu tương tự để thấy tới 76% bệnh nhân ung thư của ông chia sẻ chung một mô hình áp lực tạo ra những căng thẳng mạn tính trong cuộc đời họ. Cụ thể, bệnh nhân ung thư thường có:

(1) Một tuổi thơ khó khăn, ví dụ như mồ côi cha mẹ, cha mẹ ly hôn, hoặc thường xuyên cãi vã, chung sống không hạnh phúc. Những đứa trẻ này phải chịu áp lực cố gắng làm hài lòng người khác để nhận được sự quan tâm và tình cảm.

(2) Ở tuổi trưởng thành, những đứa trẻ này tìm thấy cho mình một mối quan hệ hoặc xây dựng được một sự nghiệp mà chúng toàn tâm toàn ý đầu tư tâm sức của mình vào đó.

(3) Tuy nhiên, mối quan hệ hoặc sự nghiệp này đi đến một giai đoạn đổ vỡ, ví dụ như cái chết của vợ hoặc chồng, ly hôn, phá sản hoặc bị sa thải khỏi công việc.

(4) Những người này đã vào tuổi trung niên nhưng vì cảm giác mất mát, tuyệt vọng và bất lực, vết thương thời thơ ấu của họ lại tái phát. Họ liên tục bị dồn nén cảm xúc, tự tỏ ra là mình ổn. Người ngoài có thể thấy họ rất thân thiện, hòa đồng, nhưng bên trong những con người này chứa đầy những cảm xúc tiêu cực như giận giữ, chán ghét, thất vọng…

Trong nhóm đối chứng, chỉ có khoảng 10% những người không mắc ung thư trải qua cái được gọi là "mô hình LeShan" này.

Tuy nhiên, ngay cả vậy, chúng ta cần hiểu đây chỉ là một nghiên cứu quan sát, nghĩa là các nhà khoa học thống kê những điểm chung của bệnh nhân ung thư, chứ chưa thể khẳng định mối quan hệ nhân quả, rằng những người có mô hình LeShan thì sẽ mắc ung thư vào một thời điểm nào đó sau này trong cuộc đời.

16-1711097593732424593658.png


Sau LeShan, cũng có nhiều nghiên cứu quan sát được thực hiện chỉ ra mối liên hệ giữa căng thẳng và ung thư nhưng không chỉ ra được quan hệ nhân quả. Chẳng hạn như vào năm 2008, một phân tích tổng hợp của 142 nghiên cứu cho thấy căng thẳng có liên quan đến tỷ lệ mắc ung thư phổi cao hơn.

Một nghiên cứu của các nhà khoa học Canada năm 2017 tìm thấy mối liên hệ giữa căng thẳng tại nơi làm việc và nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Tương tự, một phân tích tổng hợp năm 2019 tìm thấy căng thẳng tại nơi làm việc liên quan đến nguy cơ mắc ung thư phổi, đại trực tràng và ung thư thực quản.

Các nhà khoa học lập luận rằng căng thẳng thường khiến người phải chịu đựng nó có những hành vi kém lành mạnh, ví dụ như hút thuốc lá, uống rượu, ăn quá nhiều và lười vận động. Vì vậy, căng thẳng có thể gián tiếp dẫn đến bệnh ung thư chứ không trực tiếp gây ra căn bệnh.

Nhưng liệu căng thẳng có thực sự chỉ là nguyên nhân gián tiếp gây ra ung thư hay không? Một số nhà khoa học không nghĩ vậy.

17-171109759374788538763.png


Trong một nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Cancer Cell số tháng 2 vừa rồi, một nhóm các nhà khoa học đến từ Cold Spring Harbor Laboratory, một phòng thí nghiệm tư nhân của Hoa Kỳ đã lần đầu tiên tìm ra một cơ chế sinh học đằng sau tình trạng căng thẳng, thứ có thể khiến tế bào ung thư di căn nhanh gấp 4 lần và biến tính mô phổi trong một động thái "chuẩn bị cho ung thư khởi phát".

Nghiên cứu được thực hiện trên chuột, trong đó, họ đã sử dụng những con chuột được biến đổi gen nhằm phát triển một dạng ung thư vú tự nhiên. Sau đó, những con chuột này được tiêm một lượng tế bào ung thư sang phổi để mô tả quá trình di căn phổi của bệnh.

Cuối cùng, các nhà khoa học sử dụng mô hình giống như của Selye để đưa một số chuột vào trạng thái căng thẳng.

Để đưa những con chuột vào trạng thái căng thẳng, một trong số những cách làm là thả chúng vào bể nước
Những con chuột sẽ bị véo đuôi, cứ 5 phút một lần; bị thả vào bể nước, ép chúng bơi liên tục; bị nhốt vào hộp hẹp, để không thể ngọ nguậy; bị bắt phải nghe tiếng ồn liên tục; bị bỏ đói qua đêm; không cho uống nước; bị nhỏ nước vào chuồng khiến cho ổ của chúng ẩm ướt; bị nghiêng lồng trên mặt phẳng 30 độ để luôn phải chạy lên chỗ ở; bị chiếu sáng liên tục để không thể ngủ được…

Kết quả cho thấy trong cùng một khoảng thời gian theo dõi, những con chuột bị căng thẳng có bệnh tiến triển nhanh gấp 2-3 lần. Kích thước khối u vú của chúng tăng gấp đôi so với những con chuột thuộc nhóm đối chứng không bị căng thẳng. Trong khi đó, tốc độ di căn phổi còn tăng gấp bốn lần.

Để tìm hiểu tại sao hiệu ứng này lại xảy ra, các nhà khoa học đã nhìn vào xét nghiệm máu của những con chuột bị căng thẳng. Họ thấy sự gia tăng của một loại hormone tên là glucocorticoids.

Glucocorticoids từ lâu đã được biết đến là một hormone căng thẳng, bởi nó được tuyến thượng thận tiết ra mỗi khi chúng ta bị căng thẳng. Khi glucocorticoids xuất hiện nhiều trong máu, nó tác động lên một loại bạch cầu gọi là bạch cầu trung tính, khiến các tế bào này tự trục xuất DNA ra ngoài.

Các sợi DNA của hàng trăm bạch cầu trung tính sau đó móc ngoặc vào với nhau, tạo thành một mạng lưới gọi là Bẫy bạch cầu trung tính ngoại bào (Neutrophil extracellular traps-NET). Trong điều kiện bình thường, những chiếc lưới này giăng ra có công dụng bắt những sinh vật ngoại lai trôi nổi trong máu và nội tạng của cơ thể, chẳng hạn như vi khuẩn và virus, để những tế bào bạch cầu khác sau đó tiếp cận và tiêu diệt chúng.

18-171109759381059142629.png


Vì vậy, NET vốn là một cơ chế miễn dịch có ích cho cơ thể, cho đến khi, nó được kích hoạt bởi glucocorticoids từ cơn căng thẳng và trở thành một thứ gì đó quái đản: Một cái lưới bắt các tế bào ung thư trôi nổi trong máu, rồi chính cái lưới đó trở thành một giá thể cho tế bào ung thư đọng lại và phát triển thành khối u.

Giống như một cái lưới đánh cá đặt không đúng chỗ bị tảo và rêu bám vào, NET cũng đang tạo ra một ngôi nhà lý tưởng cho tế bào ung thư di căn phát triển.

Bằng chứng không thể chối cãi về cơ chế gây ung thư từ NET. Khi các nhà khoa học thực hiện 3 thử nghiệm để loại bỏ NET bằng 3 cách khác nhau: Lần một, sử dụng kháng thể để giết chết toàn bộ bạch cầu trung tính. Lần hai phá hủy NET bằng một loại thuốc và lần ba, biến đổi gen những con chuột để chúng không đáp ứng với hormone căng thẳng glucocorticoid để tạo ra NET nữa.

Trong cả ba thí nghiệm mới, những con chuột dù thiếu NET dù bị đặt vào trạng thái căng thẳng triền miên nhưng bệnh ung thư của chúng không còn di căn nữa.

"Dữ liệu của chúng tôi khẳng định glucocorticoids được cơ thể giải phóng khi gặp căng thẳng mạn tính gây ra sự hình thành NET và thiết lập một môi trường vi mô thúc đẩy ung thư di căn", các nhà khoa học viết.

Mọi chuyện thậm chí còn chưa dừng lại ở đó. Sự hình thành của NET trong mô phổi không chỉ đóng vai trò chất dẫn cho ung thư di căn, nó cũng đóng vai trò như một yếu tố tiền ung thư. "Nó gần như đang chuẩn bị cho mô của bạn sẵn sàng bị ung thư", các nhà khoa học cho biết.

19-171109759386298086414.png


Trước đây, các hormone căng thẳng cũng từng mang tiếng xấu khi sự xuất hiện của chúng là một chỉ dấu cho hiện tượng kháng hóa trị ở bệnh nhân ung thư. Một số hormone như norepinephrine có thể làm tăng khả năng ung thư di căn khi chúng kích thích sự hình thành mạch máu ở khối u.

"Chính bởi vậy, giảm căng thẳng nên là một phần của phác đồ điều trị ung thư và cũng nên là một phần trong chiến lược phòng ngừa ung thư", các nhà khoa học cho biết. Nhưng làm thế nào để biết bạn có đang bị căng thẳng hay không? Và căng thẳng đến mức nào sẽ đặt bản thân bạn vào nguy cơ mắc bệnh?

Năm 1926, Hans Selye, một bác sĩ người Hungary quan sát thấy tất cả các bệnh nhân đến phòng khám của mình đều có chung một số triệu chứng như: mệt mỏi, chán ăn, sụt cân, họ thích nằm một chỗ cả ngày và không có tâm trạng làm việc…

Dành hơn 10 năm nghiên cứu tình trạng này, Selye phát hiện bất kỳ áp lực về mặt thể chất hay tâm lý nào tác động lên con người đều gây ra một tập hợp các triệu chứng tương tự. Mượn khái niệm "stress" của các nhà vật lý học, Selye gọi nó là "căng thẳng".

Người ta nói đùa rằng, trước khi Isaac Newton phát minh ra lực hấp dẫn, những quả táo đã không rơi xuống đất, còn con người thì có thể bay. Thật ngớ ngẩn! Nhưng có một sự thật: Trước khi "căng thẳng" được định nghĩa bởi Hans Selye vào năm 1936, "stress" chỉ là khái niệm mà các nhà vật lý nói chuyện với nhau, về những sợi dây, về đống lò xo và về những thanh ray kim loại của họ.

Hơn 9 thập kỷ đã trôi qua kể từ ngày căng thẳng được nghiên cứu một cách nghiêm túc. Càng ngày, các nhà khoa học càng nhận thấy stress đáng sợ hơn họ tưởng.

Bắt đầu chỉ bằng một tập hợp các triệu chứng mơ hồ như mệt mỏi, uể oải, chán ăn... ít ai có thể hình dung căng thẳng đang góp phần gây ra 80% tất cả các loại bệnh tật trên đời, bao gồm cả bệnh tim mạch, tiểu đường và ung thư.

Thường thì căng thẳng gián tiếp gây ra bệnh tật thông qua việc thúc đẩy hành vi không lành mạnh như uống rượu, hút thuốc lá, ăn uống đồ ngọt quá mức… Nhưng một số nghiên cứu gần đây đã tìm được những cơ chế sinh học cho thấy bản thân căng thẳng có thể trực tiếp góp mặt vào quá trình sinh bệnh, đặc biệt là quá trình di căn của ung thư.

Thực trạng đáng báo động, bởi cuộc sống hiện đại đang đặt ra cho con người rất nhiều áp lực từ tài chính, công việc, gia đình cho đến xã hội. Các nghiên cứu chỉ ra tình trạng ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, các hệ quả của quá trình đô thị hóa và công nghiệp, công nghệ hóa cũng khiến con người ngày càng trở nên căng thẳng.

Viện Căng thẳng Hoa Kỳ cho biết cứ 3 người trên thế giới thì có 1 người đang phải đối mặt với căng thẳng quá mức. Theo đánh giá của họ, những người này có tới 80% nguy cơ sẽ mắc một căn bệnh liên quan đến stress, thứ có thể khiến sức khỏe của họ suy sụp trong vòng 2 năm tới.

Vậy làm thế nào để biết bạn có đang nằm trong nhóm nguy hiểm được cảnh báo hay không? Trong trường hợp xấu nhất, có cách nào giúp bạn giảm căng thẳng xuống ngưỡng an toàn trước khi bệnh tật ập đến?

Một khảo sát tính điểm trong bài viết này sẽ giúp bạn làm điều đó. Nhưng trước khi mở máy tính và cộng những con số, hãy cùng làm rõ một hoài nghi vẫn còn đang tồn tại:

Câu hỏi này dẫn chúng ta quay ngược trở lại thập niên 1930, sau khi Hans Selye phát hiện tác động tiêu cực của căng thẳng lên cơ thể. Ông đã thực hiện một loạt các nghiên cứu nhằm cố gắng thuyết phục các bác sĩ, nhà khoa học và cả cộng đồng y tế quan tâm đến nó.

Thế nhưng một lần nữa, nỗ lực này Selye không mấy thành công. Khái niệm "căng thẳng" mà ông đưa ra bị các nhà khoa học thực nghiệm cho là quá mơ hồ, trong khi, các bác sĩ phủ nhận áp lực tâm lý có thể khiến người ta bị bệnh.

Năm 1958, Selye thậm chí còn vướng vào một "scandal" với ngành công nghiệp thuốc lá. Nhiều người nghi ngờ rằng ông ấy đã nhận tiền (khoảng 200.000 USD tương đương với 2,1 triệu USD ở tỷ giá ngày nay) để giúp "tẩy trắng" những điếu thuốc thông qua việc "phát minh" ra căng thẳng.

Cuối thập niên 1950, thuốc lá mới bị phát hiện là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh từ tim mạch, bệnh phổi cho đến ung thư.

Ngành công nghiệp thuốc lá nhận ra rằng, nếu như họ có thể đổ lỗi cho một tác nhân như căng thẳng gây ra bệnh tật, thì những điếu thuốc có khả năng sẽ thoát tội hoặc ít nhất cũng sẽ nhẹ tội đi, dựa trên một thực tế rằng, người ta thường hút thuốc khi bị căng thẳng.

Và thế là họ lặng lẽ đổ tiền cho Hans Selye nghiên cứu chủ đề này, một cách bí mật.

Đổi lại, các công ty thuốc lá có thể sử dụng lại những phát biểu của Selye để quảng cáo cho sản phẩm của họ. Một số tài liệu cho thấy đại diện của ngành công nghiệp tham gia vào quá trình biên tập những bài báo khoa học mà Selye viết ra, duyệt qua nội dung của chúng và thống nhất cách diễn đạt với ông ấy.

Mối liên hệ giữa Hans Selye và ngành công nghiệp thuốc lá khiến người ta tự hỏi: Liệu căng thẳng có thật, hay chỉ là một "phát minh" của Selye và ngành công nghiệp?

Đối với một nhà khoa học như Selye, đó là một vết chàm lớn trong cả sự nghiệp. Có lẽ chính vì vậy mà Selye từng được đề cử tới 17 lần cho giải Nobel Y học, nhưng cả 17 lần ông đều bị Hội đồng Giải Nobel tại Viện Karolinska đánh trượt.

Về phần mình, Selye có lẽ đã hình dung được việc thuyết phục các đồng nghiệp khó đến mức nào, do đó, ông đã chuyển hướng sang một đối tượng mới: công chúng.

Selye nhận thấy rằng khi ông viết báo để giới thiệu khái niệm "căng thẳng" cho độc giả phổ thông, các tầng lớp lao động bình dân đã đón nhận nó hơn là những nhà khoa học tự nhốt bình bên trong tháp ngà của họ.

Chẳng hạn như khi Selye mô tả những triệu chứng thường gặp của căng thẳng, bao gồm nhịp tim tăng cao, cảm thấy khó ngủ, gặp vấn đề dạ dày, tiêu hóa… Sau đó, ông hỏi mọi người có gặp căng thẳng khi trải qua những tình huống như mất việc, li dị, chuyển nơi ở mới… hay không?

Câu trả lời của nhiều người là: Có. Vậy là đủ để họ tin vào việc mình đang bị căng thẳng. Các khái niệm và ý tưởng về căng thẳng mà Selye đưa ra, bây giờ không cần đến khoa học thực nghiệm để kiểm chứng. Chính công chúng, những người đọc sách, đã trở thành đối tượng kiểm chứng cho căng thẳng.

Sau đó, Selye đã tự mình làm việc từ 19-20 tiếng mỗi ngày, ông điên cuồng viết báo và sách. Hơn 1.500 bài báo và 40 cuốn sách về căng thẳng đã được Selye viết ra để truyền bá khái niệm mới của mình. Một trong số đó là cuốn "Căng thẳng và cuộc sống" đã trở thành cuốn sách bán chạy trên phạm vi toàn cầu.

Khi các độc giả phổ thông của Selye dễ dàng thừa nhận khái niệm căng thẳng, và họ nói về nó ở mọi chỗ, mọi nơi: "Tôi bị căng thẳng ở nơi làm việc", "Tôi căng thẳng khi ở nhà", "Cuộc sống dạo này khiến tôi thấy căng thẳng"...

Điều này vô hình trung đặt một áp lực trở lại giới khoa học, những người bây giờ cũng cảm thấy căng thẳng vì họ chính là người có nghĩa vụ phải kiểm chứng khái niệm này một cách nghiêm túc hơn bằng cách:

Giống như trọng lực không phải một phát minh của riêng Isaac Newton, lực điện từ không phải do Michael Faraday tạo ra, hoặc chính khái niệm căng thẳng đã luôn tồn tại trong vật lý cơ học cổ điển, các nhà tâm lý học nói rằng nếu căng thẳng tâm lý của Hans Selye thực sự tồn tại, họ phải tìm cách đo được nó.

Công việc lần đầu tiên được thực hiện bởi bộ đôi Thomas Holmes và Richard Rahe, hai nhà tâm lý học người Mỹ vào năm 1967.

frame-10-17112994475381447365339.png


Để tìm cách đo được mức độ căng thẳng của một người, đến ngưỡng khiến họ mắc bệnh, Holmes và Rahe đã nghiên cứ kỹ hồ sơ y tế của hơn 5.000 bệnh nhân, liệt kê các sự kiện có ảnh hưởng trong đời mà họ từng phải đối mặt trước khi mắc bệnh.

Các sự kiện này được Holmes và Rahe chấm điểm dựa trên căn bệnh mà người đó mắc phải. Ví dụ một sự kiện được cho là càng gây căng thẳng, thì điểm số của nó sẽ càng cao, và sự kiện đó càng có khả năng gây ra bệnh tật.

frame-11-1711299447550459234684.png


Kết quả, Holmes và Rahe đã thành lập được một thang đo căng thẳng đầu tiên bao gồm 43 sự kiện gây ra ảnh hưởng lớn trong cuộc đời:

Holmes và Rahe nhận thấy trong vòng một năm kể từ thời điểm làm khảo sát, những người nào trải qua các sự kiện có tổng điểm cao hơn 300, là những người có mức căng thẳng cao và có nguy cơ cao sẽ mắc một loại bệnh tật nào đó.

Người có điểm từ 150-299 có mức độ căng thẳng vừa phải và nguy cơ mắc bệnh của họ ở mức trung bình (giảm 30% nguy cơ so với nhóm trên). Những người có tổng điểm nhỏ hơn 150 được Holmes và Rahe đánh giá là có nguy cơ mắc bệnh thấp với mức độ căng thẳng thấp.

Bây giờ, hãy thử lấy ví dụ về một người đàn ông có vợ vừa mới sinh con. Vì vợ sinh con nên sức khỏe của cô ấy được coi là biến động lớn (44 điểm), vợ anh cũng không thể làm việc (26 điểm), không đáp ứng nhu cầu tình dục (39 điểm).

Anh ấy cũng có thêm thành viên trong gia đình là đứa con (39 điểm) và thường cũng sẽ phải đối mặt với thay đổi trong thói quen ngủ (16 điểm), thói quen ăn uống (15 điểm), thói quen giải trí (19 điểm), thói quen cá nhân (24 điểm) để chăm sóc vợ con.

Chỉ riêng điều này đã đưa người đàn ông này vào nhóm nguy cơ mắc bệnh trung bình với 222 điểm.

Nếu người đàn ông này tiếp tục gặp những căng thẳng trong công việc như cãi nhau với đồng nghiệp (35 điểm), gặp rắc rối với sếp (23 điểm), bị điều chuyển sang bộ phận khác (29 điểm), thì anh ấy đã vượt qua 300 điểm trên thang đo của Holmes và Rahe, để rơi vào nhóm có nguy cơ mắc bệnh cao.

Tương tự, bạn có thể sử dụng thang đo của Holmes và Rahe để tính điểm căng thẳng cho chính mình. Lưu ý rằng, theo thang đo này, có một số sự kiện quan trọng trong cuộc đời thường được coi là "hạnh phúc", ví dụ như có con, thăng chức, đạt thành tích cá nhân xuất sắc… cũng có thể gây căng thẳng cho bạn chứ không chỉ các sự kiện tiêu cực. Vì vậy, bạn cần phải tính đến chúng.
Kể từ khi được đưa ra vào năm 1967, Thang đo căng thẳng của Holmes và Rahe đã liên tục được kiểm chứng và sử dụng bởi bác sĩ và các nhà tâm lý học để đánh giá mức độ căng thẳng mà một người đang phải đối mặt cùng với nguy cơ mắc bệnh của họ.

Một số nghiên cứu tiếp tục đo lường nguy cơ mắc bệnh cao trong nhóm dân số có điểm trên 300. Họ nhận thấy có tới 49% những người thuộc nhóm này cuối cùng sẽ mắc bệnh. Con số chỉ là 25% ở nhóm 200-299 điểm và 9% trong nhóm có điểm dưới 150.

Những người thuộc nhóm trên 300 điểm có nguy cơ mắc bệnh nhiều hơn 90% so với nhóm dưới 150 điểm.

Thậm chí, nếu kéo dài thời gian đánh giá, Viện Căng thẳng Hoa Kỳ cho biết người nào có trên 300 điểm trong thang đo Holmes và Rahe sẽ có 80% nguy cơ mắc một căn bệnh khiến sức khỏe của họ suy sụp trong vòng 2 năm tiếp theo của cuộc đời.

Những con số này bây giờ đã được hỗ trợ bởi hàng trăm nghiên cứu bệnh lý học về căng thẳng, những gì tình trạng này có thể gây ra với hệ thống nội tiết của cơ thể, qua đó, ảnh hưởng tới quá trình sinh bệnh và tiến triển của bệnh tật.

Vì vậy, thật khó để phủ nhận sự tồn tại của căng thẳng, cho dù, những người tích cực quảng bá khái niệm này nhất lại là ngành công nghiệp thuốc lá. Và Hans Selye, dù có nhận tiền tài trợ từ những công ty sản xuất thuốc lá, ông ấy không tự mình phát minh ra căng thẳng.

Selye đã phát hiện nó giống như Isaac Newton phát hiện ra lực hấp dẫn, Michael Faraday phát hiện ra lực điện từ và Albert Einstein phát hiện ra hiệu ứng quang điện.

Trở lại với bài kiểm tra căng thẳng của Holmes và Rahe, tin xấu là nếu điểm căng thẳng của bạn trên 150, nó sẽ đưa bạn vào nhóm những người có nguy cơ mắc bệnh. Đặc biệt, điểm căng thẳng trên 300 sẽ khiến bạn có nguy cơ mắc bệnh rất cao.

Các loại bệnh đã thiết lập được mối quan hệ chắc chắn với căng thẳng bao gồm: bệnh tim mạch, cao huyết áp, viêm loét dạ dày, tá tràng, hen suyễn, hội chứng đau (ví dụ như đau nửa đầu, đau đầu, đau lưng), một số bệnh ngoài da, rối loạn tâm lý như trầm cảm, rối loạn lo âu, hội chứng ruột kích thích…

Bằng chứng khoa học đang tiếp tục chứng minh căng thẳng gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm khác, từ bệnh ngoài da, các hội chứng tuyến giáp cho đến tiểu đường type 2 và ung thư.

Nhưng có một tin tốt.

Các nhà khoa học cho biết bạn có thể đánh bại Thang đo căng thẳng của Holmes và Rahe, dựa trên một thực tế, thang đo này chưa tính đến cách mỗi người chúng ta đối phó với căng thẳng.

Nếu bạn có chiến lược để đối phó với từng tình huống căng thẳng trong thang đo của Holmes và Rahe, điểm căng thẳng của bạn sẽ được xóa bỏ, và bạn sẽ giảm được nguy cơ mắc bệnh của mình.

Ví dụ, thường xuyên đi dạo được chứng minh là có tác dụng làm giảm căng thẳng tại nơi làm việc. Một cái ôm từ ai đó, bạn bè hoặc người thân có thể giúp giảm căng thẳng từ những mâu thuẫn trong hôn nhân.

Sự thật là, đã có những cơ chế sinh học được tìm thấy gợi ý việc căng thẳng làm khởi phát ung thư và đặc biệt nó khiến ung thư di căn nhanh hơn ở những bệnh nhân đã mắc bệnh. Kiểm soát căng thẳng vì vậy nên là một phần của việc điều trị bệnh tật, bao gồm điều trị ung thư và các căn bệnh mạn tính khác.

Ở những người khỏe mạnh, phòng ngừa căng thẳng nên là một phần của lối sống lành mạnh, bên cạnh dinh dưỡng, chăm sóc giấc ngủ và hoạt động thể chất. Có chiến lược giải tỏa căng thẳng cũng là bạn đang thực hiện chiến lược phòng ngừa bệnh tật từ xa một cách khoa học và hiệu quả

Hiện nay rất nhiều người ở các nước phát triển, muốn làm nông trại để vui tươi và giảm stress so với các công việc văn phòng
 
Last edited:
Giàu lên. :rolleyes:
Giàu lên thì stress x 100000, ko nói đến việc làm ăn bạc cả tóc, hại cả nơ ron thì còn phải lo giữ mạng hơn người bình thường, sợ đối thủ trừ khử, sợ đồng đội, anh em, bạn hữu hãm hại, sợ con bồ tiễn đi gặp diêm vương sớm để chiếm đoạt gia sản, nếu vợ chồng oke thì nỗi lo dời sang con cháu, dâu rể :D
 
Càng có tuổi càng stress , suy nghĩ đủ thứ từ sức khoẻ ông bà - cha mẹ , áp lực tiền bạc , việc học của con cái , kiểu như overthink rồi lại sinh ra stress
yndaNMk.png

Nhiều lúc lại nghĩ không biết gì cả , sống nay đây mai đó thì lại hạnh phúc nhất , chứ càng biết nhiều thì lại càng thấy không hạnh phúc , suy nghĩ quá nhiều lại sinh ra trầm cảm
QI37ZJF.png

Trầm cảm nhiều thì lại dễ sinh bệnh , tệ hơn thì…….
IFm6uF0.png


via theNEXTvoz for iPhone
 
Càng có tuổi càng stress , suy nghĩ đủ thứ từ sức khoẻ ông bà - cha mẹ , áp lực tiền bạc , việc học của con cái , kiểu như overthink rồi lại sinh ra stress
yndaNMk.png

Nhiều lúc lại nghĩ không biết gì cả , sống nay đây mai đó thì lại hạnh phúc nhất , chứ càng biết nhiều thì lại càng thấy không hạnh phúc , suy nghĩ quá nhiều lại sinh ra trầm cảm
QI37ZJF.png

Trầm cảm nhiều thì lại dễ sinh bệnh , tệ hơn thì…….
IFm6uF0.png


via theNEXTvoz for iPhone
Chắc chỉ có trẻ em và người bị tâm thần là ko cảm nhận được áp lực thôi fen à, chứ còn sống thì kiểu gì mà chả có áp lực. Trách nhiệm càng nhiều, quyền lợi càng cao thì áp lực nó cũng tỉ lệ thuận theo. Ngày nào đẹp trời thì nó xìu xìu làm mình quên đi còn ngày nào công việc, làm ăn không như ý thì áp lực nó lại càng tăng
BdgiW7R.png


Bởi từ đó mới sinh ra đủ loại hình giải trí gái gú cho đàn ông xả stress
uq1dgnk.png
 
Back
Top