S T U P I D
Junior Member
CHARLES FOURNIAU
Bản dịch của Tạ Thị Thúy – tập san NCLS số 256 – năm 1991
Phần I – Sự di cư của người Hoa vào Bắc Kỳ: số lượng, nguồn gốc, phân bố và quy chế
Ở Việt Nam, nếu người ta xem dân cư Việt Nam như là một tổng thể, nghĩa là không đi vào những vấn đề dân tộc học của các cư dân thiểu số sinh sống trên những vùng núi rừng rộng lớn và từ xa xưa họ luôn luôn được coi là thần dân của vua An Nam rồi sau đó là dân bảo hộ của nước Pháp, thì cư dân ngoại lai cần được xem xét ngay sau đó là người Hoa.Đây là đề tài rộng lớn, nên tôi muốn giới hạn sự nghiên cứu của mình trong một thời gian và không gian nhất định.
Trước hết về không gian, tôi chỉ nghiên cứu vấn đề này ở Bắc Kỳ – trừ Nam Kỳ (và hiển nhiên cả Campuchia và Lào là những xứ thuộc liên bang Đông Dương, nhưng hoàn toàn khác Việt Nam). Có hai lý do chính dẫn đến sự giới hạn về không gian này. Về phương pháp luận: sự thống nhất quốc gia của Việt Nam càng mạnh mẽ bao nhiêu – mà cả lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của nó đã chứng minh điều đó – thì sự khác biệt giữa các vùng càng rõ rệt bấy nhiêu. Những vấn đề cụ thể không bao giờ được đặt ra trong cùng những bối cảnh ở đồng bằng sông Mê Kông hay ở đồng bằng sông Hồng. Như vậy một sự nghiên cứu được mở ra trên toàn bộ nước VN sẽ có nguy cơ hời hợt hay không chính xác, hoặc cả hai, vậy mà điều đó lại thường xảy ra. Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp, với cảng lớn sài gòn của nó, là nơi tiếp cận đầu tiên của tất cả tàu thuyền từ Pháp tới và là nơi có Toàn Quyền đóng, đã được nghiên cứu nhiều hơn so với những xứ khác ở VN. Còn ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, sự nghiên cứu đó lại thường không đầy đủ. Trong đó có việc nghiên cứu người Hoa ở Đông Dương.
Về thực tiễn, ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, nền bảo hộ đã được thừa nhận qua hiệp ước Pháp – Hoa ngày 9-6-1885, địa vị của các con “Con Trời” đã có một cơ sở pháp lý khác với địa vị của họ ở Nam Kỳ. Vị trí địa lý cũng rất khác: xa cách hay trái lại kế cận. Về phương diện lịch sử cũng thế, hiển nhiên Bắc Kỳ đã tiếp nhận người Hoa sớm hơn Nam kỳ.
Về phương diện phân kỳ, mặc dù chiến tranh thế giới lần thứ nhất không phải là một sự chia cắt có ý nghĩa ở viễn đông, nhưng cuộc cách mạng Trung Quốc 1911, tiến trình của những cách thức khai thác thuộc địa ở Đông Dương từ năm 1920 trở đi đã gợi ra việc lấy năm 1914 làm một chỗ ngắt cho phép giới hạn đề tài và khối lượng tài liệu phải xử lý.
Ước tính về số lượng
Ngay từ trước chiến tranh lần thứ nhất, người Hoa ở Bắc Kỳ đã tương đối đông, đông hơn nhiều so với ở Trung Kỳ, ít hơn nhiều so với ở Nam Kỳ. Từ năm 1887, số người Hoa được tính một cách chính thức ở Bắc Kỳ là 7.467, trong đó riêng thành phố Hải Phòng là 4700. Vào đầu thế kỷ XX, họ có từ 10.000 đến 20.000 người: năm 1911 tối thiểu là 22.000 người. Giữa hai cuộc chiến tranh, con số này tăng lên nhanh chóng: 32.000 người 1921, 32.000 năm 1921, 52.000 năm 1931. Trong cùng những thời kỳ này, số người Hoa ở Trung Kỳ lần lượt là: 3000 (1890), 5000, 7000 và 10.000. Trái lại ở Nam Kỳ, ngay trước chiến tranh thế giới thứ nhất, số người Hoa là 100.000 người, trong đó Sài Gòn – Chợ Lớn chiếm 60.000 người và tăng lên gấp đôi năm 1931.
Chắc chắn rằng đây phần lớn là những con số ước tính nên không thể hoàn toàn chính xác và sẽ là hão huyền nếu muốn lập – với sự trợ giúp của những thông tin được khai thác từ những nguồn sử liệu khác nhau – một bảng thống kê hay những đồ thị về sự di cư của người Hoa vào Đông Dương một cách đầy đủ và chính xác. Nhất là, theo cách tốt nhất, tất cả mọi sự ước tính chỉ có thể là một bức hình có tính chất phỏng chừng về sự biến động giữa số nhập vào và số ra đi với một sự phong phú đáng kể: trong khoảng từ 1923 – 1933, giai đoạn có được những con số đáng tin cậy thì số ra đi trên toàn Đông Dương lên tới 470.000, trong khi nhập vào là 600.000.
Mặc dù những con số đó quan trọng như thế nào thì chúng cũng chỉ biểu thị cho một bộ phận rất nhỏ của khối phát tán khổng lồ người Hoa – khối lớn nhất của thế giới ngày nay, và ngay từ trước thế chiến thứ nhất nó đã đạt đến mức cao ở những thuộc đại Ấn của Hà Lan(Indonesia) hay những thuộc địa Mã Lai của Anh(Mã lai và Sing) đến nỗi vấn đề đặt ra không phải là: Giải thích như thế nào về sự hiện diện của người Hoa ở Đông Dương nói chung, ở Bắc Kỳ nói riêng, mà là: Tại sao ở xứ tiếp giáp với Trung Hoa này, sự di cư của người Hoa lại không mạnh hơn ?
Sự di cư của người Hoa vào đồng bằng sông Hồng diễn ra từ thời cổ đại. Dưới thời Hán, các tội nhân đã bị đầy sang Giao Chỉ, tiếp đó các nhà sư Trung Quốc đến đây để giảng kinh Phật, rồi đến các thương nhân. Năm 1882-1884. Chiến tranh Pháp-Hoa và cuộc chinh phục xứ Bắc Kỳ đã làm cho họ bỏ chạy rất nhiều. Nhưng ngược lại, sự chiếm đóng của người Pháp ở Đông Dương đã thu hút người Hoa ngay từ những ngày đầu tiên. Điển hình về mặt này là sự phát triển của Hải Phòng. Xuất phát từ con số không năm 1874 và nhanh chóng trở thành hải cảng của xứ thuộc địa Bắc Kỳ, Hải Phòng trước hết là do người Hoa cư trú: năm 1887, Hải Phòng có 4.700 người Hoa, trong khi chỉ có 3000 người Việt và 271 người Pháp. Một năm trước đó, ngân hàng Đông Dương khi mới thiết lập đã thừa nhận: “Từ lâu nay, sự di cư của người Hoa vào Bắc Kỳ có một tầm quan trọng nhất định, đối với chúng tôi những vùng này dường như là một báo hiệu của sự phồn vinh. Mới từ gần một năm nay đã có gần 4.500 người Hoa, phần lớn là những thương nhân đến cư trú”.
Nguồn gốc và sự phân bố về phương diện địa lý
Phần lớn người Hoa ở Bắc Kỳ có nguồn gốc hoặc từ Quảng Đông hoặc từ Phúc Kiến. Đại bộ phận trong số họ di cư vào Bắc Kỳ qua đường biển, chứ không phải qua biên giới đất liền. Tuy nhiên sự tiếp giáp này đã chỉ ra sự phân bố về phương diện địa lý của sự di cư của người Hoa vào vùng phía bắc Việt Nam: năm 1919, quá nữa số người Hoa ở Bắc Kỳ sống ở vùng Đông – Bắc từ Móng Cái đến Lào Cai.
Lý do thứ nhất: các băng đảng hình thành từ các dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc, sau được bổ sung lưu dân người Hoa do những khó khăn về chính trị quân sự , nhất là sự cùng khổ ở các tỉnh miền nam Trung Quốc. Tuy có bị đánh bại và bị đẩy về phía biến giới, nhưng nhiều người trong số họ ở lại Bắc Kỳ, với tư cách cá nhân hay cư ngụ trong lãnh thổ của những thủ lĩnh người Hoa đã đầu hàng.
Mặc khác, biên giới là nơi buôn bán quang trọng hơn rất nhiều so với những số liệu thống kê của nàh Đoan(hải quan). Thực tế, phần lớn việc buôn bán này đã thoát ra khỏi sự kiểm soát, hoặc là vì nó được biểu hiện là sự trao đổi giữa các làng hai bên biên giới, hoặc là vì nó là sự trao đổi ẩn lậu, đặc biệt là thuốc phiện. Cũng vậy, giữa biên giới và sông Hồng người ta thấy có nhiều cụm cư dân nhỏ người Hoa rất biệt lập trong vùng này với những đường giao thông khó khăn và nguy hiểm. Những cộng đồng này gần như tự trị và có khuynh hướng ít thừa nhận quyền lực của quan lại người Việt, thậm chí cả những viên chức người Pháp. Ở những thị trấn vùng biên giới(Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai) có những nhóm người Hoa rất lớn, thường là các thương nhân đã đến cư trú, đôi khi từ lâu đời: năm 1892, ở vùng Lạng Sơn, người ta cho biết có một ông Bang trưởng đã cư trú ở đây từ 30 năm, tức là trước cả sự xâm nhập của người Pháp rất lâu.
Trong tất cả vùng núi biên giới Vân Nam và Quảng Tây đều là vùng đi lại của dân buôn người Hoa, tập trung cư trú tại các thị trấn hạng trung ở ven thượng du hình thành nên những cộng đồng người Hoa địa phương. Suốt dọc biên giới Quảng Đông, trong vùng tam giác được tạo thành bởi vùng biên giới và biển với đỉnh cao nhất là Móng Cái, cư dân Hoa Kiều đặc biệt đông và luôn chiếm ưu thế, tạo thành 3 nhóm khác nhau.Ở Hải Phòng, đặc biệt là trên đảo Cát Bà, người Hoa củng di cư đến từ lâu và đóng vai trò quan trọng trên biển, đánh cá, đi biển hay buôn bán linh tinh mà không phải bao giờ cũng trong sáng. Các vị “Con Trời” đã chiếm một vị trí chủ yếu cả về số lượng cũng như trong đời sống kinh tế trải dài từ Hải Phòng – một trung tâm chủ yếu của người Hoa ở Bắc kỳ – đến Móng Cái – một thị trấn hầu như toàn bộ là nguời Hoa.
Sự tiếp giáp của Bắc Kỳ với Trung Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong việc di cư của người Hoa vào Bắc Kỳ, trước cả sự thống trị của người Pháp từ lâu và tạo thành một yếu tố Hán hóa của vùng này, với sự thúc đẩy của chính quyền Lưỡng Quảng. Tình hình đó đã tạo ra cơ sở cho những yêu sách về lãnh thổ của TQ khi hoạch định biên giới đến mức TQ sáp nhập cả vùng đất gọi là cùng lõm của Việt Nam hay mũi Packlung bên kia Móng Cái qua hiệp ước Constans 1887, rồi đến giữa năm 1887 và năm 1895 cả một số vùng lãnh thổ nhỏ nữa.
Quy chế của người Hoa di cư ở Bắc Kỳ
Sự tiếp xúc giữa người Pháp và người Hoa ở Bắc Kỳ phức tạp hơn rất nhiều ở Nam Kỳ. Có một sự xung đột quyết liệt giữa Pháp và người Hoa (tham vọng thôn tính của thiên triều và các băng cướp trên vùng thượng du), phản ánh lý do người Hoa cư trú ở đây bị sa sút – điều này rất khác ở Nam Kỳ.
Điều khoản 1 Hiệp ước Thiên Tân(9-6-1885): “Những người Hoa, điền chủ và cựu chiến binh, đang sống yên ổn ở Annam, hoạt động trong nông nghiệp, công nghiệp hay thương nghiệp mà hạnh kiểm không có gì đáng chê trách sẽ được đảm bảo an toàn về tính mạng và tài sản giống như những người được Pháp bảo hộ”. Nguyên do là vì người Hoa rất cần thiết cho sự phát triển của công cuộc thuộc địa nên các nhà cầm quyền Pháp đã quy định điều lệ cho một thiểu số ngoại lai người Hoa ở Bắc Kỳ. Để làm điều này Pháp đã bắt chước biện pháp đã được sử dụng từ lâu trước đó ở Nam Kỳ – những biện pháp được tiếp tục pháp chế hóa do vua Minh Mạng ban bố năm 1824: người Hoa sống trong tình trạng của những người nước ngoài bị kiểm soát, bị bắt buộc phải có thẻ lưu trú và phải chịu thuế thân.Nhưng họ lại được hưởng một ân huệ bởi vì Hiệp ước Patenôtre đảm bảo cho họ được xét xử theo pháp luật nước Pháp đối với những vụ làm ăn với người Âu, còn những vụ việc khác thì xét sử theo luật bản xứ.
Thuế thân được lập ra ở Bắc Kỳ do nghị định 12-2-1885 đã được tướng De Courey – vừa là tổng tư lệnh vừa là tổng trú sứ – vận dụng. Người Hoa được chia thành nhiều hạng(từ 3 đến 5 hạng) tùy theo tài sản của họ, được đánh giá theo hạng thuế môn bài hay thuế ruộng đất của họ. Thuế thân hạng nhất là 300 francs/một năm, hạng cuối khoảng vài francs, dĩ nhiên là francs vàng, thay đổi cao hay thấp tùy theo những nhu cầu về nhân công nhập cư.
Thứ thuế này là một mối lợi không nhỏ, vào năm 1894 nó đã đem đến khoảng 600.000 đồng bạc (piastre) trên toàn cõi Đông Dương, tức là khoảng 2 triệu francs. Tuy nhiên nó chỉ là một đảm phụ nhỏ nhẹ so với tài sản của một bộ phận cộng đồng người Hoa hay so với khoảng tiền mà dân chúng bản xứ đã nộp.
Việc nộp khoảng thế thân này cho phép được nhận thẻ lưu trú – thứ thẻ mà bắt buộc mọi người Hoa đến tuổi thành niên bắt buộc phải có, còn trẻ em phụ nữ và người già chỉ cần một giấy thông hành là đủ.Thẻ lưu trú có giá trị tại nơi lưu trú.Để rời khỏi nơi lưu trú cần phải có một giấy thông hành do chính quyền thuộc địa cấp.Cũng như thế, nếu vào bằng đường bộ thì chỉ có thể qua một số điểm được phép và sau khi được lãnh sự Pháp ở Trung Quốc cấp cho một hộ chiếu. Vào bằng đường biển thì nhất thiết phải có một giấy phép lưu trú.
Khi đã định cư ở Bắc Kỳ, cũng như ở Nam Kỳ và Trung Kỳ, người Hoa nhập vào hệ thống của một bang. Từ thời Minh Mạng, người Hoa sống trong đế quốc Annam đã được tập hợp lại thành bang(mỗi bang là một tỉnh hoặc một địa phương ngữ) với người đứng đầu là Bang trưởng, được các vị thân hào bầu ra và được chính quyền hàng tỉnh chấp nhận. Vai trò của bang trưởng gần giống với vai trò của lý trưởng, ông ta là người hòa giải giữa các thành viên trong cộng đồng, là người trung gian với chính quyền và là người thu thuế. Trên thực tế người Pháp đã không thay đổi một chút gì đối với tổ chức này. Đối với xứ bảo hộ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Paul Vial quyền tổng trú sứ đã chính thức hóa hệ thống này bằng nghị định 27-12-1886. Các văn kiện quy định rằng mỗi tỉnh lập ra một bang, đứng đầu là bang trưởng và phó bang trưởng do toàn thể người Hoa trong tỉnh có thẻ lưu trú bầu ra, người đứng đầu bang đảm bảo việc thu khoảng thuế thân của bang, còn bản thân người này được miễn thay cho tiền công.Bang liên đới chịu trách nhiệm về việc nộp toàn bộ số tiền đã được ấn định. Việc cai trị trong nội bộ bang được đảm bảo dưới quyền lực của bang trưởng. Viên bang trưởng bang Lạng Sơn đã viết vào năm 1915: “Mọi người Hoa, phải báo ngay lập tức cho tôi tất cả những gì thấy khả nghi, người nào che giấu những người lạ mặt bất lương mà tôi không biết sẽ bị phạt … làm như vậy, dân chúng có thể yên tâm chăm lo cho công việc của mình.”
Ai là người Hoa di cư và những cộng đồng người Hoa đã thành lập ở Bắc Kỳ như thế nào? Cũng như hầu hết các nhóm di cư, đại bộ phận người Hoa cư trú ở Bắc Kỳ là đàn ông, trong đó chiếm ưu thế là các lớp tuổi từ 20 đến 50. Hai đặc tính đó đã chỉ ra rằng đối với một số lớn, đây là một cuộc di cư có tính chất tạm thời.
Thực tế cho ta thấy cứ có 4 người đến thì có 3 người đi. Động cơ chính của những người di cư là gì ? Luôn luôn chỉ có một, đó là sự cùng khổ. Mặc dù sự thiếu thốn lớn về tài liệu, đây là vắn tắt về một trong những số phận đó – một số phận hoàn toàn tầm thường vô vị. Một cậu bé vô danh sinh ra ở Quảng Đông, mồ côi từ nhỏ. Năm 14 tuổi, cậu đến Hải Phòng đã tìm được một việc làm ở một gia đình ở Quảng Đông và ở đó trong 3 năm. Sau đó cậu bé làm việc trong 2 năm ở Phủ Lạng Thương. Về Lạng Sơn, cậu được tuyển dụng vào làm cho một ông chủ người Phúc Kiến, ông chủ này ghi tên cậu vào bang của ông ta – từ đó sinh ra những sự phản kháng, và những sự phản kháng này giúp cho chúng ta có cái nhìn đại thể về số phận của bất kỳ người nào.
Người mới đến hầu như luôn luôn không đem theo vợ. Nếu họ định cư lâu dài, đôi khi họ đưa vợ từ Trung Quốc sang, nhưng thông thường là họ kết hôn tại chổ với phụ nữ bản địa. Tỷ lệ giữa đàn ông và đàn bà của việc di cư này trong giai đoạn 1923 – 1933, giai đoạn mà người ta có sự thẩm tra rất tốt, là 36% trên toàn Đông Dương. Trước chiến tranh thứ nhất, ở Bắc Kỳ chỉ có kém hơn mà thôi. Như vậy đã có hàng chục nghìn phụ nữ Việt Nam đã kết hôn với đàn ông Trung Quốc. Sự kết hợp đó đã sinh ra những đứa con lai gọi là Minh Hương. Những đứa trẻ này được nuôi dạy theo kiểu Trung Hoa, chúng gắn bó với cộng đồng người Hoa hơn với người Việt, đến mức mà đôi khi một số được bầu là bang trưởng.
Như vậy hôn nhân đã hòa nhập người Hoa vào cuộc sống Việt Nam, nhưng không đồng hóa được họ cũng như không cố định được họ. Thường thường ngay cả khi lấy vợ ở Việt Nam, khi về già người đàn ông Trung Quốc lại quay trở về sống những ngày cuối đời của họ ở quê hương. Vả lại suốt những ngày trú ngụ ở Việt Nam, ngay cả khi sống ở đây rất lâu, họ cũng luôn luôn giữ mối quan hệ với gia đình, quê hương. Những người giàu nhất vẫn còn duy trì hay thậm chí còn tạo ra những công việc làm ăn ở Trung Quốc như ông Lao Tzou Sam – người từ Quảng Đông sang Bắc Kỳ năm 1884, cư trú ở Hà Nội trong 31 năm, là bang trưởng và thầu khoán về vận tải, đến năm 1911, vắng mặt trong 3 năm để về chăm lo vùng mỏ của ông ở Vân Nam.
Những mối liên hệ với quê hương này không ngăn trở một sự ổn định thực sự của một bộ phận các gia đình người Hoa hoặc Hoa – Việt, đời con kế tiếp đời cha. Sự cư trú lâu dài đó được thể hiện bằng sự giao tiếp không chỉ bằng tiếng Việt mà cả bằng tiếng Pháp. Phần lớn thời gian những viên bang trưởng nói gần đúng và đôi khi rất giỏi tiếng nói của kẻ thực dân.
Nhưng hiển nhiên không phải là tất cả các cộng đồng người Hoa đều có những nét đó – những nét đó đã được người Pháp duy trì, vì nó đặc trưng cho những thương nhân giàu có là những người ủng hộ chính quyền Pháp. Thực tế cộng đồng người Hoa này hoàn toàn không đồng nhất về mặt xã hội cũng như về mặt ngôn ngữ. Từ nhà tư sản mại bản đến những người cu li làm việc trên những công trường đường sắt hoặc trong các hầm mỏ có một hố sâu ngắn cáchvề mặt xã hội. Trong cùng một thành phố hay ngay trong nội bộ các cửa hiệu, sự khác biệt về xã hội rất rõ ràng và đôi khi rất quyết liệt. Năm 1908 những người làm công trong các cửa hiệu của các chủ hiệu người Quảng Đông đã kiện tên Bang trưởng lên tận Tòa Công sứ vì “ông ta đã tự đặt mình. một cách nhiệt tâm, dưới sự điều khiền của các ông chủ hiệu và ông ta đã làm những điều trái với những cuộc họp của những người làm công tuy rằng hai loại người này đều thuộc cùng một bộ tộc người Quảng Đông và họ cùng kết bim tóc như nhau”.
Mặt khác, giữa người Quảng Đông và người Phúc Kiến có một sự chia rẽ và nhiều khi có cả sự xung đột gay gắt. Ngôn ngữ chia rẽ họ, người này không hiểu tiếng nói địa phương của người kia, đồng thời họ cũng không muốn sống chung với nhau. Hơn nữa do sự khác nhau về nguồn gốc khiến cho những đối kháng về mặt xã hội luôn luôn chồng chất lên nhau, ở mức cao là nhóm này mâu thuẫn với nhóm khác theo địa phương. Ở Bắc Giang, năm 1893, viên Công sứ cho biết về “những cuộc cãi vã quyết liệt giữa những Con trời Quảng Đông, những công nhân đường sắt và những thương nhân người Phúc Kiến”.
Những đối kháng nội bộ này được biểu hiện bằng những kiến nghị liên tiếp đòi hỏi trong cùng một tỉnh phải được thành lập hai bang khác nhau. Chính quyền Pháp, trung thành với luật pháp đã luôn luôn từ chối, tuy nhiên trong một số trường hợp họ vẫn phải chấp nhận sự tồn tại của hai bang khác biệt. Hơn nữa muốn làm dịu tình hình thì phải tính đến những thực tế có tính chất địa phương. Ở vùng thượng du, nhất là ở tỉnh Bắc Kạn, vì các tiểu cộng đồng làng xã người Hoa ở cách xa nhau đến mức chính quyền đành phải chấp nhận mỗi cộng đồng đó được tổ chức thành một bang. Cũng giống như thế, ở trong các mỏ thuộc tỉnh Cao Bằng hay trong những vùng than ở Quảng Yên, để kiểm soát công nhân được chặt chẽ hơn, chính quyền thuộc địa yêu cầu mỗi trung tâm thành lập ra một bang với một người Bang trưởng có trách nhiệm báo cho những người mộ phu những công nhân bỏ trốn, những trưởng hợp tử vong hay những người ra đi, v.v…
Mặt khác, văn kiện năm 1886 xác định rằng Bang trưởng phải được những người Hoa có thẻ lưu trú bầu lên. Nhưng những biên bản bầu cử lại chỉ ra rằng các cử tri hầu hết chỉ là thương nhân. Số phiếu bầu cử nói chung là vài chục, ngay cả ở Hải Phòng cũng chưa bao giờ đạt tới con số 200 phiếu bầu. Trên thực tế bọn đầu sỏ thương nhân là người điều khiển bang; cuộc bầu cử, đôi khi bị nghi ngờ, luôn luôn chỉ là một sự giả tạo, xác nhận sự lựa chọn của những cuộc họp kín của một nhóm có ảnh hưởng, đôi khi nó chỉ để dành riêng cho những dòng họ, đời con nối tiếp đời cha, bộc lộ tính bền vững của sự di cư của một bộ phận cộng đồng này.
Chính quyền Pháp bỏ mặc họ muốn làm gì thì làm. nó chỉ lo lắng đến tính hiệu quả và trật tự hơn là nó đem lại quyền lợi cho những người cu li và nó đặc biệt chỉ quan tâm tới tính hiệu quả về kinh tế của thương nhân Hoa kiều. Hơn nữa khi chính quyền hiểu rỏ rằng đằng sau bề mặt có tính chất công khai của bang mà nó biết, là một cuộc sống bên trong của cộng đồng người Hoa, cộng đồng này đã thoát ra khỏi sự kiểm soát của nó. Nhiều nhóm cùng tồn tại: hội nghề nghiệp, hội tương tế, hội thờ cúng, không kể đến người gia nhập vào các hội kín, bang bao trùm lên tất cả, tổ chức cứu hỏa, lính tuần canh, xét xử, hòa giải, bắt phạt… mà chính quyền Pháp hoàn toàn không biết gì cả.
Những biên bản bầu cử các Bang trưởng chỈ ra rằng hệ thống này được giữ bí mật kém hơn là người ta luôn luôn miêu tả về nó và người ta đã nhìn thấy một cách công khai những sự đối kháng và những sự thất bại. Tuy nhiên đó chỉ là một phần nhỏ bé trong cuộc sống sôi động bên trong của thế giới người Hoa di cư — những con người cho tới cùng vẫn có một chút huyền bí dưới con mắt của các nhà chức trách.