Những tác động của đại dịch COVID-19, cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine, xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước gia tăng... đã khiến cho môi trường kinh doanh và đầu tư toàn cầu thay đổi đáng kể. Điều này, không chỉ làm ảnh hưởng đến đà phục hồi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), mà còn như một chất xúc tác thúc đẩy các xu hướng dịch chuyển FDI diễn ra nhanh chóng hơn, tác động đến mọi quốc gia trên thế giới cũng như đến các chính sách đầu tư hiện nay.
Dây chuyền sản xuất ô tô Tesla ở Thượng Hải, Trung Quốc. (Ảnh: THX/TTXVN)
THỰC TRẠNG FDI TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Các biện pháp đóng cửa, giãn cách xã hội tại nhiều quốc gia trên thế giới để đối phó với đại dịch COVID-19 đã làm chậm lại các dự án đầu tư hiện có, nguy cơ của một cuộc suy thoái khiến các công ty đa quốc gia (MNC) phải xem xét lại các dự án mới. Chịu ảnh hưởng trực tiếp của đại dịch COVID-19, dòng vốn FDI trên toàn cầu đã giảm 35% trong năm 2020 so với năm 2019, từ 1.500 tỷ USD xuống dưới 1.000 tỷ USD - mức thấp nhất kể từ năm 2005 và thấp hơn gần 20% so với mức đáy năm 2009 sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu(1).
Năm 2021, FDI toàn cầu đã phục hồi và vượt qua mức trước đại dịch COVID-19, đạt 1.582 tỷ USD, tăng 64% so với năm 2020. Sự gia tăng này chủ yếu là do lợi nhuận đến từ các giao dịch mua bán và sáp nhập (M&A) cùng mức lợi nhuận giữ lại tương đối cao của các MNC. Điều này đã dẫn đến các dòng tài chính nội bộ gia tăng đáng kể và xuất hiện những biến động mạnh về FDI tại các trung tâm đầu tư lớn. Sự phục hồi FDI trong năm 2021 đã mang lại mức tăng trưởng cao ở tất cả các khu vực. Trong đó, các nền kinh tế phát triển có mức tăng mạnh nhất đạt 134% (khoảng 746 tỷ USD), chiếm gần 3/4 mức tăng của dòng vốn FDI toàn cầu và cao gấp đôi so với mức năm 2020. Mặc dù dòng vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển tăng 30%, đạt 837 tỷ USD, song do dòng vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển tăng chậm hơn so với dòng FDI vào các khu vực phát triển nên tỷ trọng FDI của các nước đang phát triển trong FDI toàn cầu đã giảm từ 66% (năm 2020) xuống 53% (năm 2021).
MỘT SỐ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN FDI TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Trên thực tế, sự sụt giảm và dịch chuyển dòng vốn FDI trên toàn cầu đã được định hình trong nhiều năm trở lại đây, đặc biệt kể từ năm 2018, khi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc diễn ra gay gắt cùng với xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước gia tăng đã khiến dòng vốn đầu tư trên thế giới sụt giảm (trên 10% trong cả hai năm 2018 và năm 2019). Trong bối cảnh đó, đại dịch COVID-19 xuất hiện và lây lan nhanh chóng đã thúc đẩy quá trình dịch chuyển FDI diễn ra nhanh hơn, quyết liệt hơn. Sự dịch chuyển này có thể được lý giải bởi những nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, tái cấu trúc chuỗi cung ứng.
Được đánh giá là kiến trúc sư của chuỗi giá trị toàn cầu, các MNC chiếm khoảng 22% sản lượng toàn cầu, 70% tổng giá trị thương mại và chiếm tỷ trọng đáng kể về số lượng việc làm trên thế giới(2). Các cơ sở sản xuất của MNC được phân bố ở nhiều quốc gia, phần lớn trong số đó nằm ở các nước đang phát triển, nhất là ở Trung Quốc. Tuy nhiên, quá trình phát triển các chuỗi sản xuất này đã bộc lộ một số khiếm khuyết, tiềm ẩn những rủi ro. Vì vậy, các MNC đã có xu hướng đa dạng hóa và dịch chuyển các chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc. Đại dịch COVID-19 bùng phát khiến cho chuỗi cung ứng bị đứt gãy, gián đoạn càng làm bộc lộ rõ hơn những bất cập trong chuỗi cung ứng hiện nay, như quá phụ thuộc vào nguồn cung của Trung Quốc; những tiềm ẩn rủi ro gia tăng bởi căng thẳng Mỹ - Trung Quốc ngày càng leo thang; chi phí sản xuất ở Trung Quốc tăng ngày càng cao, trong khi nước này đang dịch chuyển lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị, do vậy ngày càng thắt chặt các chính sách khuyến khích đầu tư đối với các ngành dựa trên lao động, đất đai và các yếu tố khác. Hơn nữa, sự tiến bộ của khoa học - công nghệ cùng sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy đầu tư và sản xuất hồi hương để giảm thiểu chi phí sản xuất và vận tải, cũng như tạo điều kiện để các nhà đầu tư sản xuất tiếp cận thị trường gần hơn. Do vậy, các MNC nhận thấy cần phải tái cấu trúc chuỗi cung ứng mạnh mẽ hơn.
Việc các MNC tái cấu trúc chuỗi cung ứng đã kéo theo sự dịch chuyển dòng vốn FDI theo các hướng: 1) Dịch chuyển đầu tư sản xuất từ Trung Quốc sang các nước khác trong khu vực như Ấn Độ và các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) để giảm thiểu sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong khi vẫn giữ và tận dụng được các cơ sở đã đầu tư tại Trung Quốc; 2) Dịch chuyển toàn bộ hoặc một phần đầu tư sản xuất về nước (reshoring) hoặc về gần các nước đi đầu tư (near-reshoring).
Thứ hai, tỷ suất lợi nhuận từ FDI ngày càng giảm.
Xu hướng sụt giảm FDI đã được định hình kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 - 2008 và được thể hiện ở cả tỷ lệ FDI/GDP thế giới, FDI/đầu tư thế giới và FDI/thương mại thế giới. Năm 2020, FDI chỉ chiếm dưới 4% tổng giá trị thương mại đầu tư toàn thế giới, thấp hơn nhiều so với con số 22% ở thời kỳ đỉnh điểm năm 2007. Sự sụt giảm này một phần là do tỷ suất lợi nhuận trung bình từ FDI trên toàn cầu đã sụt giảm trong thập niên qua(3).
Trong giai đoạn 2007 - 2018, tỷ suất lợi nhuận trung bình từ FDI ở các nền kinh tế phát triển ở mức khá ổn định (đạt mức 4,0% đến 6,7%), thậm chí từ năm 2010, tỷ suất lợi nhuận này ổn định hơn (đạt mức 5,9% đến 6,7%). Trong khi đó, tỷ suất lợi nhuận trung bình từ FDI ở các nền kinh tế đang phát triển giảm từ khoảng 11,5% (năm 2011) xuống còn 7,8% (năm 2018). Ở các nền kinh tế chuyển đổi, tỷ suất này ổn định hơn cả. Đây cũng là lý do mà FDI vào các nước đang phát triển có xu hướng giảm mạnh hơn so với các khu vực khác.
Quy mô FDI toàn cầu chủ yếu dựa trên hoạt động đầu tư của các MNC, vì vậy khả năng tái đầu tư của họ sẽ suy giảm khi lợi nhuận của các công ty này sụt giảm. Năm 2020, dòng vốn FDI của các tập đoàn đa quốc gia từ các nước phát triển đã giảm hơn một nửa, xuống còn 347 tỷ USD - giá trị thấp nhất kể từ năm 1996(4).
Một yếu tố khác cũng có thể khiến tỷ suất lợi nhuận từ FDI sụt giảm chính là sự không chắc chắn của nền kinh tế. Một trong những chỉ số đo lường về sự không chắc chắn trong triển vọng của nền kinh tế là chỉ số tính bất định của chính sách kinh tế (EPU). Chỉ số EPU đã gia tăng trong thập niên vừa qua. Khi đại dịch COVID-19 bắt đầu xuất hiện, chỉ số EPU toàn cầu cao gấp ba lần mức đã chứng kiến vào đầu năm 2010, mức cao nhất được khảo sát trên phạm vi toàn cầu nói chung và ở Mỹ nói riêng. Sự bất định của nền kinh tế gia tăng buộc các nhà đầu tư phải cẩn trọng hơn trong mọi quyết định đầu tư của mình.
Thứ ba, cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine.
Tác động của cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine đã vượt ra ngoài phạm vi khu vực, gây ra cuộc khủng hoảng trên cả ba lĩnh vực: lương thực, nhiên liệu và tài chính, đẩy giá năng lượng và hàng hóa tăng cao dẫn đến lạm phát và vòng xoáy nợ ngày càng trầm trọng. Điều này đang làm gia tăng tình trạng rủi ro, làm suy giảm niềm tin kinh doanh và đầu tư, ảnh hưởng đáng kể tới đà phục hồi FDI toàn cầu.
Năng lực sản xuất và thị phần xuất khẩu của một số mặt hàng nguyên liệu, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng, như xăng dầu, khí đốt, lúa mì, nhôm, nikel, ngô… của Nga và Ukraine là rất lớn. Do đó, sự kéo dài của cuộc xung đột Nga - Ukraine đã làm gia tăng sự gián đoạn trong sản xuất và thương mại, làm trầm trọng thêm tình trạng lạm phát, vốn đang tăng cao trên toàn cầu do tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19. Chỉ trong vòng hai tuần kể từ khi xảy ra căng thẳng giữa Nga và Ukraine, giá dầu thô trên thị trường thế giới đã tăng 30% so với mức giá đầu năm 2022 và tăng khoảng 80% so với mức đáy thiết lập đầu tháng 12-2021(5). Chiến sự ở Ukraine kéo dài sẽ tiếp tục tác động đến giá cả hàng hóa và lạm phát trên thế giới. Dự báo giá năng lượng năm 2022 sẽ tăng 52%, giá nông sản sẽ tăng 18%, giá phân bón tăng gần 70% và giá kim loại tăng 12%. Lạm phát ngày càng lan rộng sang nhiều quốc gia sẽ khiến kinh tế toàn cầu phải đối mặt với áp lực gia tăng tỷ lệ lạm phát. Dự báo lạm phát sẽ tăng 5,9 - 6,7% (gấp đôi so với năm 2021). Trong đó, lạm phát tại các nền kinh tế phát triển là 5,7% và tại thị trường các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển là 8,7%, cao hơn 1,8 và 2,8 điểm phần trăm so với dự báo đã đưa ra trong tháng 1-2022(6).
Lạm phát gia tăng dẫn đến làn sóng thắt chặt chính sách tiền tệ diễn ra rộng khắp trên toàn thế giới với tốc độ nhanh chưa từng thấy trong nhiều thập niên gần đây. Chỉ trong 3 tháng qua, trên toàn thế giới đã công bố hơn 60 đợt nâng lãi suất. Nhiều chuyên gia kinh tế cảnh báo các đợt nâng lãi suất này chỉ là khởi đầu cho một chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ trên toàn cầu. Quá trình thắt chặt chính sách được dự đoán sẽ diễn ra nhanh nhất tại các nước phát triển, như Mỹ và Anh, EU.
Thanh khoản toàn cầu ngày càng bị thắt chặt. Ngày 21/9/2022, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tiếp tục tăng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm (lần thứ ba liên tiếp từ đầu năm 2022 FED tăng lãi suất dựng đứng 0,75%) nhằm kiềm chế lạm phát tăng cao nhất trong 40 năm qua tại Mỹ. Đồng đô la Mỹ đóng vai trò là đồng tiền dự trữ quốc tế, do đó việc tăng lãi suất của Mỹ không chỉ ảnh hưởng đến dòng vốn nước ngoài mà còn đẩy tỷ lệ rủi ro nợ toàn cầu lên cao, đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển.
Các chuyên gia phân tích dự báo, động lực cho dòng vốn đầu tư năm 2022 thiếu tính bền vững, dòng vốn FDI toàn cầu trong năm 2022 sẽ giảm tốc hoặc có khả năng đi ngang nhưng các dự án đầu tư mới sẽ không mang tính chắc chắn. Đồng thời, dòng vốn đầu tư chảy vào các lĩnh vực liên quan đến mục tiêu phát triển bền vững vẫn còn yếu, đặc biệt như nông nghiệp, y tế, giáo dục. Trong quý I-2022, dòng vốn đầu tư vào các dự án xanh đã giảm 21% trên toàn cầu, các hoạt động M&A - động lực của dòng FDI trong năm 2021 đã giảm 13%, các dự án tài trợ quốc tế giảm 4%. Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư của các các công ty đa quốc gia hiện cũng ở mức thấp, chỉ bằng 1/5 mức trước đại dịch COVID-19(7).