Hồi xưa, lúc ông bà cha mẹ mất, người ta lấy một miếng lụa trắng (nhà nghèo thường dùng vải trắng) dài 7 thước để lên mặt, sau kết thành hình người, gọi là hồn bạch, để cho vong hồn người chết y ỷ vào đó.
Hồn là linh hồn, bạch là lụa. Hồn bạch là tấm lụa có linh hồn ỷ vào.
Khi đưa đám, người ta rước hồn bạch đi trước, linh cữu đi sau. Khi hạ huyệt mai táng rồi, người ta lại rước hồn bạch về nhà, để trên linh tọa tức bàn thờ mà thờ, coi như là cái hình ảnh của người đã mất vậy.
Do cái hồn bạch đó, mà người ta gọi nôm người đã mất trong nhà, thờ trên bàn thờ là ông vải, vì tuy gọi là hồn bạch nhưng phần nhiều, người ta dùng vải trắng kết thành.
Nói ông bà ông vải là nói chung ông vải, bà vải, tức là các ông, các bà đã mất.
Ông vải lại có người giải nghĩa khác. Ông vải chính là tiếng ông vãi biến ra. Ông vãi, bà vãi nghĩa là ông cái (ông đẻ ra cái tức là mẹ), bà cái (bà đẻ ra mẹ) hay ông ngoại, bà ngoại; vãi là một tiếng Việt cổ hiện nay dân tỉnh Sơn Tây Bắc Kỳ vẫn còn dùng.
Ông bà ông vải tức là ông bà ông vãi, và có nghĩa là: ông bà mình (ông bà nội) và ông vãi (ông ngoại). Vậy ông bà ông vải trỏ chung cả ông bà bên nội và bên ngoại.