Đinh Đinh Đang Đang
Senior Member
HƯƠNG RỪNG
Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5
Phần 6
Phần cuối
Phần 1
___Sống ở rừng U-minh hạ từ lâu rồi mà Hoàng Mai hãy còn có cảm giác như lạc loài tận đâu đâu, bước chân đi không vướng đất. Ví nàng như cánh bèo rày đây mai đó thì không đúng lắm; có lẽ nàng như đoá hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng loại hoa sen thông tục (chung chung, thông thường) quá, lại thường lọt vào tay phàm! Ðằng nầy, bẩm sinh nàng thuộc về một phẩm chất thanh cao hơn.
___— Tằng tổ(ông bà bốn đời, từ đời mình, cha, ông nội, ông cố) nhà ta vốn họ Trần, nhờ dày công phò chúa từ Thuận-hoá đến đây nên được cải ra họ Nguyễn. Niên mỗ, ngoạt mỗ, giặc Tây-sơn đến mãi tận chốn rừng già nầy, chúa Nguyễn đành ra khơi tìm nơi cứu viện. Thảm hại thay! Tằng tổ nhà ta tuổi già, nhuốm bịnh không vượt biển hộ giá được, đành cam lỗi đạo quân thần, giả dạng lê dân, nương náu nơi chốn thanh lâm u cốc. Người được phong đến chức ngự y. Gia phổ ghi chép rành rành, nội (chỉ, riêng) xứ nầy, chỉ dòng họ ta là có gia phổ, đó con.
___Cha của nàng thường nhắc nhở như vậy.
___— Là quan ngự y, cớ sao tằng tổ ta không tự chữa bịnh được. Hẳn là bịnh nan y! Thưa cha...
___Bao lần nàng ướm hỏi như vậy nhưng không dám. «Thuộc dòng hoàng phái nhưng sao Triều đình không chú ý tới mà ban cho chút bổng lộc?» Ðó là nỗi thắc mắc triền miên của nàng khi thấy cha già chuốt tre đan giỏ mà độ nhựt(sống qua ngày) hoặc ngồi buông cán câu bên bờ trúc, giữa trăm bầy muỗi rừng.
___Thỉnh thoảng, cha nàng nói khẽ như thanh minh, tự an ủi:
___— Hoàng đế đang tức vị thuộc dòng ngụy(giả mạo) do tân trào (triều đình mới, chánh phủ mới) dựng lên. Giọt máu hùng anh của tiên vương nầy đã bị lưu đày nơi hải đảo Bòn-bon, bặt tăm nhàn cá (lâu quá không có tin tức gì). Nhận chức hương giáo trong ban hội tề làng Khánh-lâm (một xã ở U-minh) sở tại, chẳng qua là cha muốn bưng bít dư luận. Bổng lộc của tân trào, cha nào màng, chỉ nguyện làm bạn bầu với cây cỏ, gió trăng.
___Ngày ngày lớn khôn, Hoàng Mai càng yên tâm tin tưởng nơi giòng máu quí phái của mình. Cội hoàng mai cổ thụ trước sân há chẳng là một bằng cớ? Bao năm rồi, nó vẫn bền gan khoe sắc khi gió Tết thổi về; vùng U-minh này mấy ai biết thưởng thức giống hoa vương giả lạc loài! Bản Nam Bình réo rắt trong ruột cây đàn thập lục(đờn tranh) chỉ để riêng cho nàng thông cảm đó thôi... Nhưng cơ trời không ai ngờ được, tránh được. Mây đẹp của đỉnh Ngự (núi Ngự Bình, Huế) còn có khi tan, nước yên lành của dòng Hương (sông Hương, Huế luôn) thường bị gợn những làn sóng nhỏ. Năm ngoái, năm kia, khi vừa quá tuổi trăng tròn (tuổi 15 của con gái), một buổi chợt soi mặt vào lu nước mưa, nàng bắt gặp cái màu trắng trong leo lẻo của làn da mình. Miệng chúm chím hàm tiếu (cười chúm chím), nàng vuốt mớ tóc đen huyền; bàn tay ngà đặt trên má đỏ hây hây, mơn man chuyền suối tóc về trên sau lưng gầy. Nhưng... lạ kìa! Hàng chục sợi tóc thi nhau tuôn xuống.
___Gió nhẹ thoảng qua; chân tóc lấm tấm đung đưa, vướng bận chưa chịu bay đi như còn than van niềm biệt ly vô cớ. Nàng cau mày trở vào phòng, cầm lược, chải kỹ. Nàng toan rú lên. Lược đùa đến đâu là tóc rụng đến đó như lá úa trên cành đến độ gió trở mùa. Nàng e thẹn. Nàng giận dỗi.
___Thân phụ nàng — ông hương giáo — chạy tới. Nàng soi gương, không day lại(không quay mặt lại) rồi trả lời về tiếng rú khi nãy:
___— Không gì lạ đâu, thưa cha.
___Ông hương giáo đã hiểu nguồn cơn. Mớ tóc rối nằm cuộn đống trên bàn khiến ông xúc cảm, không che giấu được cơn buồn. Chiếc gương mờ soi đôi má ửng của Hoàng Mai, màu ửng đỏ lạ thường, không biến đổi dầu khi nàng sợ hãi.
___— Từ hồi tấm bé, làn da của Hoàng Mai mịn quá, bóng quá. Trăm sự đều do đó mà ra...
___— Tằng tổ
___Cha của nàng thường nhắc nhở như vậy.
___— Là quan ngự y, cớ sao tằng tổ ta không tự chữa bịnh được. Hẳn là bịnh nan y! Thưa cha...
___Bao lần nàng ướm hỏi như vậy nhưng không dám. «Thuộc dòng hoàng phái nhưng sao Triều đình không chú ý tới mà ban cho chút bổng lộc?» Ðó là nỗi thắc mắc triền miên của nàng khi thấy cha già chuốt tre đan giỏ mà độ nhựt
___Thỉnh thoảng, cha nàng nói khẽ như thanh minh, tự an ủi:
___— Hoàng đế đang tức vị thuộc dòng ngụy
___Ngày ngày lớn khôn, Hoàng Mai càng yên tâm tin tưởng nơi giòng máu quí phái của mình. Cội hoàng mai cổ thụ trước sân há chẳng là một bằng cớ? Bao năm rồi, nó vẫn bền gan khoe sắc khi gió Tết thổi về; vùng U-minh này mấy ai biết thưởng thức giống hoa vương giả lạc loài! Bản Nam Bình réo rắt trong ruột cây đàn thập lục
___Gió nhẹ thoảng qua; chân tóc lấm tấm đung đưa, vướng bận chưa chịu bay đi như còn than van niềm biệt ly vô cớ. Nàng cau mày trở vào phòng, cầm lược, chải kỹ. Nàng toan rú lên. Lược đùa đến đâu là tóc rụng đến đó như lá úa trên cành đến độ gió trở mùa. Nàng e thẹn. Nàng giận dỗi.
___Thân phụ nàng — ông hương giáo — chạy tới. Nàng soi gương, không day lại
___— Không gì lạ đâu, thưa cha.
___Ông hương giáo đã hiểu nguồn cơn. Mớ tóc rối nằm cuộn đống trên bàn khiến ông xúc cảm, không che giấu được cơn buồn. Chiếc gương mờ soi đôi má ửng của Hoàng Mai, màu ửng đỏ lạ thường, không biến đổi dầu khi nàng sợ hãi.
___— Từ hồi tấm bé, làn da của Hoàng Mai mịn quá, bóng quá. Trăm sự đều do đó mà ra...
Phần 2
___Ông thở dài, cũng như ông đã thở dài hồi mấy năm trước, tuy gió bấc về không lạnh lắm nhưng Hoàng Mai đòi đốt lửa để sưởi rồi dẫm chân lên than hồng mà cười. Ðêm đến, ông nghe tiếng rên khe khẽ. Ngỡ là con gái nhuốm bịnh, ông đến gọi cửa đôi ba lần. Hoàng Mai nằm đó, tỉnh mà như say, hơi thở hổn hển, đôi mắt úp vào chiếc gối mềm như trốn tránh mấy sợi tơ trăng buông xuống từng hồi, khi gió rạt rào khẽ rung làm hở ra mấy mí lá che trên đầu vách.
___Bịnh của nàng, ông đoán được, ngặt không muốn nói rõ tên ra: bịnh nan y — bịnh cùi. Ông chỉ khuyên con gái năng(thường xuyên) đi guốc vì ở rừng nầy... «phong» nhiều lắm. Quyển gia phổ ngủ từ lâu đời dưới lớp bụi trên bàn thờ được vời xuống. Lật ra kính cẩn dưới ánh nến bạch lạp (đèn cầy trắng dùng xe đèn và chế thuốc, vị ngọt, không độc). Hơn trăm năm qua, kiếng họ Nguyễn chưa ai nhiễm chứng ấy, rõ ràng không phải bịnh di truyền. Ông suy luận:
___— Có thể nhà mình đắp nền trên ngôi mộ xưa của ai. Và tự ngày xưa, ai dám chối rằng khu rừng nầy không là bãi sa trường mà người thắng kẻ bại đều lẫn lộn trong đống xương vô định đã hóa ra cát bụi!
___Trang phụ lục thứ sáu của quyển gia phổ thứ nhứt còn thố lộ vài chi tiết khó hiểu, viết bằng chữ nôm:
___«Ðến Ngạc-ngư-đàm tức đầm Sầu, ao Sấu, hơi sương lạnh buốt, chướng khí xây thành. Khách hỏi: loại Ngạc Ngư (cá sấu), từ đâu lạc vào đầm? Kẻ thổ dân thưa: không ai rõ. Chúng đến đây như án ngữ nẻo đường qua truông(vùng đất hoang, cây cỏ rậm rạp) quỉ. Nơi ấy, muôn nghìn ma quái như ẩn, như hiện. Lại có loài ong dị thường năng về làm ổ: loại ong này lưng nhuộm ngũ sắc, vượt thiên lý để hái nhụy trăm hoa đem về luyện ngọc. Người phàm chưa ai đến gần được.
___Chúng không sợ khói, hửi nhằm hơi kim khí(đồ bằng kim loại) ô trược (nhơ nhớp) là chúng ào ra như giông tố giết cho kỳ được kẻ ngạo mạn. Quan ngự y họ Trần biết được tin ấy bèn sai quân sĩ bày mưu kế hòng cướp ổ ong nọ, đoạt loại ngọc thiên nhiên hiếm có đem về luyện thuốc trường sinh...»
___Tư Lập, tay thanh niên khét tiếng về nghề ăn ong ở xóm Cán-gáo được ông hương giáo mời về nhà, bày rượu thịt thết đãi, đối xử như thượng khách.
___Trang gia phổ lại giở ra, đọc nho nhỏ vừa đủ cho Tư Lập nghe. Tư Lập gật đầu.
___Bịnh của nàng, ông đoán được, ngặt không muốn nói rõ tên ra: bịnh nan y — bịnh cùi. Ông chỉ khuyên con gái năng
___— Có thể nhà mình đắp nền trên ngôi mộ xưa của ai. Và tự ngày xưa, ai dám chối rằng khu rừng nầy không là bãi sa trường mà người thắng kẻ bại đều lẫn lộn trong đống xương vô định đã hóa ra cát bụi!
___Trang phụ lục thứ sáu của quyển gia phổ thứ nhứt còn thố lộ vài chi tiết khó hiểu, viết bằng chữ nôm:
___«Ðến Ngạc-ngư-đàm tức đầm Sầu, ao Sấu, hơi sương lạnh buốt, chướng khí xây thành. Khách hỏi: loại Ngạc Ngư (cá sấu), từ đâu lạc vào đầm? Kẻ thổ dân thưa: không ai rõ. Chúng đến đây như án ngữ nẻo đường qua truông
___Chúng không sợ khói, hửi nhằm hơi kim khí
___Tư Lập, tay thanh niên khét tiếng về nghề ăn ong ở xóm Cán-gáo được ông hương giáo mời về nhà, bày rượu thịt thết đãi, đối xử như thượng khách.
___Trang gia phổ lại giở ra, đọc nho nhỏ vừa đủ cho Tư Lập nghe. Tư Lập gật đầu.
Phần 3
___Trong rừng già nầy, bên kia ao Sấu, thỉnh thoảng loài ong ngũ sắc ấy trở về. Ban đầu chú Tư dùng con dao xương nai mà cạo lấy mật nhưng không hiệu quả. Lần sau, chú mài miếng xương người, dẹp như cây dao, theo ý muốn của ông hương giáo. Ngọc ong đã lấy được, đem về. Chú bán tín bán nghi vì thấy «ngọc» chỉ là mớ nhụy bông quến lại thành ké mà loài ong dự trữ bên góc ổ. Từ đó, ông hương giáo mời Tư Lập ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ «ngọc» để luyện, hy vọng rằng khi đúng một ngàn ngày nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai. Tư Lập như không chú ý đến điều vô lý đó, cứ ra vào nhìn trộm hình dáng giai nhân rồi nằm trằn trọc... Mãi đến một đêm nọ, lúc đứng ngắm thẩn thờ cội mai già trước sân, chú nghe hơi thở nào ấm nồng, nhồn nhột sau gáy:
___— Anh Tư ở đây vui chớ? Nãy giờ em không dám hỏi.
___Chú nhìn kỹ: không phải là dạng hồ ly tinh trêu cợt, chính là Hoàng Mai, cô gái con ông hương giáo mà bấy lâu nay chú trộm nhớ thầm thương.
___Nàng nói tiếp:
___— Cha của em dặn em gọi bằng anh, và đừng làm gì anh buồn.
___Chú hiểu ý. «À té ra bấy lâu nay ông hương giáo thương mình». Chú đánh bạo tìm bàn tay nàng. Nàng lắc đầu:
___— Em hơi mệt, như vậy...
___Rồi nàng nâng tay áo lên, thứ tay áo lõng thõng quá rộng quá dài:
___— Anh nắm cái chéo tay áo nầy, em cũng đủ vui rồi.
___Cảm động làm sao! Ngạc nhiên làm sao! Một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra. Khi níu cái chéo tay áo của người đẹp, Tư Lập thấy rõ ràng bên trong: ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế.
___Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về ở Long-xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại thì không được.
___Chú lại trở về.
___— Anh Tư ở đây vui chớ? Nãy giờ em không dám hỏi.
___Chú nhìn kỹ: không phải là dạng hồ ly tinh trêu cợt, chính là Hoàng Mai, cô gái con ông hương giáo mà bấy lâu nay chú trộm nhớ thầm thương.
___Nàng nói tiếp:
___— Cha của em dặn em gọi bằng anh, và đừng làm gì anh buồn.
___Chú hiểu ý. «À té ra bấy lâu nay ông hương giáo thương mình». Chú đánh bạo tìm bàn tay nàng. Nàng lắc đầu:
___— Em hơi mệt, như vậy...
___Rồi nàng nâng tay áo lên, thứ tay áo lõng thõng quá rộng quá dài:
___— Anh nắm cái chéo tay áo nầy, em cũng đủ vui rồi.
___Cảm động làm sao! Ngạc nhiên làm sao! Một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra. Khi níu cái chéo tay áo của người đẹp, Tư Lập thấy rõ ràng bên trong: ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế.
___Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về ở Long-xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại thì không được.
___Chú lại trở về.
Phần 4
___Sông Trèm Trẹm bắt nguồn từ xóm Cán-gáo chảy về phía Nam, qua xóm Tân-bằng rồi đổ ra sông Ông-đốc, hòa mình vào vịnh Xiêm-la.
___Thằng Kim nóng lòng, không biết Tư Lập muốn dừng lại làm ăn ở khúc nào. Giây lâu, Tư Lập nói:
___— Rừng U-minh còn nhiều bí mật! Ðừng lo mà. Tao hứa với mầy tới chỗ nầy vui lắm, đừng sợ chết đói. Có tao.
___Xuồng ngừng lại giây lát nghỉ trưa rồi mái dầm lại tiếp tục khoát dòng nước đỏ ngòm, tuy chảy mạnh nhưng tư bề khuất gió nên không gợn sóng. Ðôi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình lại, giao đầu, bắt tay nhau che kín bóng mặt trời.
___Khách đi đường ngỡ mình lạc lối trong hang, thứ hang thiên nhiên, bất tận. Có tiếng vượn hú. Từ bên nầy, con vượn bồng con, nắm sợi dây rau câu, lấy trớn đu mình sang nhánh ở bờ bên kia để hái trái vừng. Trái quá chát, vỏ quá dày, vượn nhăn mặt, bực tức ném mạnh. Trái vừng sa vào giữa lưới nhện giăng hờ, lơ lửng. Lưới rung rinh không đứt hẳn; con nhện hốt hoảng, thả sợi tơ dài, sa xuống. Chợt thấy mặt nước, nó toan rút trở lên. Nhưng trễ quá rồi! Con cá bông phóng mỏ theo, táp mạnh. Thằng Kim ngỡ đó là con trăn. Cá lớn bằng cây cột nhà, vảy xanh vảy trắng thêu từng vòng ngời lên khắp thân mình. No mồi, cá lặn sát đáy, lội nhanh. Bầy cá con hối hả di chuyển theo mẹ, hàng trăm con lấm tấm như rắc cườm đầy mặt nước, mất dạng trong bóng mát đằng kia. Bờ sông im lìm, mặt nước thẩn thờ trả lại bóng dáng hiền hòa của cây chồi mọc sát mé bãi: bông vừng buông thõng xuống từng xâu chuỗi hường, chen lấn, nối tiếp nhau như bức mành mành(lưới bằng kim loại). Nhánh vừng khô cằn, lá vàng rụng mất hẳn. Ðôi đọt non nhú lên, mỏng mịn, chưa nhuốm được màu xanh vì thiếu nắng; ở xa, trông như những cánh bướm khổng lồ đang phập phồng, ngứa ngáy, chưa đậu yên chỗ là đã chớm bay.
___— Kim, mầy biết nước sông nầy màu gì không?
___— Ở dưới sông, giống như màu máu bầm. Múc lên tay coi thì như nước trà pha đậm.
___Tư Lập day lại:
___— Hồi xưa, có người nói nó giống như cà-phê đen. Ờ... mầy uống cà-phê lần nào chưa?
___— Chưa, chú Tư à.
___— Bán thiếu gì, tại chợ Thới-bình. Dân ở chợ là người mới tới mua bán lập nghiệp, họ chưa dám đi sâu vô rừng làm ăn như tụi mình bây giờ. Họ nể nang dân phía trong này lắm.
___— Sao vậy, chú Tư?
___— Vì dân nầy là dân cố cựu, phá sơn lâm, đâm Hà Bá dọn đường cho họ tới sau làm ăn. Con nhà tướng đi mở đường máu mà!
___Tư Lập vừa nói vừa vói tay đập sau lưng. Thằng Kim đã hiểu nghĩa mấy tiếng «mở đường máu». Ba bốn đốm máu đỏ ngời; mấy con muỗi vừa bị đè nhẹp xác.
___Nó sực nhớ tới bầy muỗi bu quanh nó từ mấy ngày rày. Ban đầu, nó bực mình, đập giết thẳng tay, phải buông dầm khiến xuồng lủi vô bờ. Mỗi lần như vậy, Tư Lập day lại:
___— Cứ bơi lẹ, muỗi ít cắn hơn. Ở lầy quầy(dai dẳng) mình bị cắn nhiều mà không đi tới đâu hết. Xuống xuồng để bơi chớ đâu phải để đập muỗi!
___Nghe lời Tư Lập, thằng Kim bấm môi chịu đựng.
___Vài tiếng gà gáy văng vẳng, hưởng ứng nhau phá tan bầu không khí tĩnh mịch. Vòm cây lần lần(từ từ một cách chậm chạp) trống trải nắng rớt từng mảng, ngưng đọng không chịu trôi theo dòng nước ngày càng chảy hăng. Bên bờ, nước đổ róc rách theo con lạch nhỏ, vỏ tràm trôi lềnh bềnh trắng. Thằng Kim nôn nức:
___— Tới chỗ nghỉ chưa, chú Tư?
___— Chưa. Hai doi(khoảnh đất gie ra sông hay biển) nữa. Mầy nhớ không, hồi sáng tới giờ mới qua có sáu doi.
___Hai doi, đường còn xa. Thằng Kim yên lòng vì sẽ đến chỗ nghỉ trước khi trời sụp tối:
___— Chú có bà con ở đây hả?
___Tư Lập cau mày không trả lời, mở gói thuốc ra vấn hút. Ðó là gói thuốc mà chú hứa tiết kiệm, để dành hút khi tới nơi.
___Thằng Kim đoán chừng Tư Lập đang suy nghĩ nhiều. Chú lẩm bẩm:
___— Ừ, bà con hay là người dưng, chuyện đó không quan hệ. Nhắc tới tao buồn quá, muốn quày(quay về) trở lại bây giờ. Nhưng đã tới đây rồi không lẽ lại trở về. Tao không muốn kiếm nhà quen. Ở gần xóm đông thì bất lợi, ở xa quá cũng hại. Mày tin tao. Tao không dại gì trở lại đây mà tìm cái chết... Ờ, mầy họ gì? Mấy ngày rày, tao quên hỏi.
___— Họ Trương hay họ Trần gì đó, tôi quên rồi. Nghe nói hồi đó ba tôi đổi họ.
___— Ối! Họ gì cũng được, miễn tới chừng người ta hỏi thì đừng trả lời lập dập(không suôn sẻ). Nói vậy chớ ai xét hỏi. Tao có quen với vua. Hồi xưa, có người ở xóm nầy được cải ra họ Nguyễn cho giống với họ vua... Họ nói vậy hay (nghe) vậy.
___Thằng Kim ngơ ngác hỏi:
___— Bà con với vua sao lại ở đây?
___Tư Lập không trả lời. Chú bơi mạnh, mũi xuồng quẹo vô bờ, phía trái. Vàm(ngã ba sông rạch) mương nhỏ hiện ra. Chú nói:
___— Mầy nghỉ tay đi. Tới phiên tao rồi...
___Thằng Kim nóng lòng, không biết Tư Lập muốn dừng lại làm ăn ở khúc nào. Giây lâu, Tư Lập nói:
___— Rừng U-minh còn nhiều bí mật! Ðừng lo mà. Tao hứa với mầy tới chỗ nầy vui lắm, đừng sợ chết đói. Có tao.
___Xuồng ngừng lại giây lát nghỉ trưa rồi mái dầm lại tiếp tục khoát dòng nước đỏ ngòm, tuy chảy mạnh nhưng tư bề khuất gió nên không gợn sóng. Ðôi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình lại, giao đầu, bắt tay nhau che kín bóng mặt trời.
___Khách đi đường ngỡ mình lạc lối trong hang, thứ hang thiên nhiên, bất tận. Có tiếng vượn hú. Từ bên nầy, con vượn bồng con, nắm sợi dây rau câu, lấy trớn đu mình sang nhánh ở bờ bên kia để hái trái vừng. Trái quá chát, vỏ quá dày, vượn nhăn mặt, bực tức ném mạnh. Trái vừng sa vào giữa lưới nhện giăng hờ, lơ lửng. Lưới rung rinh không đứt hẳn; con nhện hốt hoảng, thả sợi tơ dài, sa xuống. Chợt thấy mặt nước, nó toan rút trở lên. Nhưng trễ quá rồi! Con cá bông phóng mỏ theo, táp mạnh. Thằng Kim ngỡ đó là con trăn. Cá lớn bằng cây cột nhà, vảy xanh vảy trắng thêu từng vòng ngời lên khắp thân mình. No mồi, cá lặn sát đáy, lội nhanh. Bầy cá con hối hả di chuyển theo mẹ, hàng trăm con lấm tấm như rắc cườm đầy mặt nước, mất dạng trong bóng mát đằng kia. Bờ sông im lìm, mặt nước thẩn thờ trả lại bóng dáng hiền hòa của cây chồi mọc sát mé bãi: bông vừng buông thõng xuống từng xâu chuỗi hường, chen lấn, nối tiếp nhau như bức mành mành
___— Kim, mầy biết nước sông nầy màu gì không?
___— Ở dưới sông, giống như màu máu bầm. Múc lên tay coi thì như nước trà pha đậm.
___Tư Lập day lại:
___— Hồi xưa, có người nói nó giống như cà-phê đen. Ờ... mầy uống cà-phê lần nào chưa?
___— Chưa, chú Tư à.
___— Bán thiếu gì, tại chợ Thới-bình. Dân ở chợ là người mới tới mua bán lập nghiệp, họ chưa dám đi sâu vô rừng làm ăn như tụi mình bây giờ. Họ nể nang dân phía trong này lắm.
___— Sao vậy, chú Tư?
___— Vì dân nầy là dân cố cựu, phá sơn lâm, đâm Hà Bá dọn đường cho họ tới sau làm ăn. Con nhà tướng đi mở đường máu mà!
___Tư Lập vừa nói vừa vói tay đập sau lưng. Thằng Kim đã hiểu nghĩa mấy tiếng «mở đường máu». Ba bốn đốm máu đỏ ngời; mấy con muỗi vừa bị đè nhẹp xác.
___Nó sực nhớ tới bầy muỗi bu quanh nó từ mấy ngày rày. Ban đầu, nó bực mình, đập giết thẳng tay, phải buông dầm khiến xuồng lủi vô bờ. Mỗi lần như vậy, Tư Lập day lại:
___— Cứ bơi lẹ, muỗi ít cắn hơn. Ở lầy quầy
___Nghe lời Tư Lập, thằng Kim bấm môi chịu đựng.
___Vài tiếng gà gáy văng vẳng, hưởng ứng nhau phá tan bầu không khí tĩnh mịch. Vòm cây lần lần
___— Tới chỗ nghỉ chưa, chú Tư?
___— Chưa. Hai doi
___Hai doi, đường còn xa. Thằng Kim yên lòng vì sẽ đến chỗ nghỉ trước khi trời sụp tối:
___— Chú có bà con ở đây hả?
___Tư Lập cau mày không trả lời, mở gói thuốc ra vấn hút. Ðó là gói thuốc mà chú hứa tiết kiệm, để dành hút khi tới nơi.
___Thằng Kim đoán chừng Tư Lập đang suy nghĩ nhiều. Chú lẩm bẩm:
___— Ừ, bà con hay là người dưng, chuyện đó không quan hệ. Nhắc tới tao buồn quá, muốn quày
___— Họ Trương hay họ Trần gì đó, tôi quên rồi. Nghe nói hồi đó ba tôi đổi họ.
___— Ối! Họ gì cũng được, miễn tới chừng người ta hỏi thì đừng trả lời lập dập
___Thằng Kim ngơ ngác hỏi:
___— Bà con với vua sao lại ở đây?
___Tư Lập không trả lời. Chú bơi mạnh, mũi xuồng quẹo vô bờ, phía trái. Vàm
___— Mầy nghỉ tay đi. Tới phiên tao rồi...
Phần 5
___Ngồi trước mũi, chú bơi phía mặt (phải) vài dầm rồi trở lẹ qua bên trái, bơi vài dầm. Xuồng lướt tới ồ ồ. Gặp dây, gặp nhánh cây cản mũi, chú bứt (rứt, lấy tay giật cho đứt), bẻ rôm rốp. Gặp nước cạn, chú đứng mà chống hoặc quì trên sạp xuồng, ngả mình tới lấy trớn. Thằng Kim vui sướng quá. Lúc nầy nó khỏe tay, dầu muốn tiếp sức với Tư Lập cũng không được. Mũi xuồng quá nhỏ, nào đủ chỗ để hai người cùng ngồi ngang nhau. Hơn nữa, bơi xuồng theo lối mới này nó chưa quen. Mặt trời sụp xuống thấp, dọi thẳng từ trước mặt. Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn ngoèo như ruột ngựa nối liền qua những lung, bàu (ao nơi đất trũng, có động nước để nuôi cá, trồng cây), tròn tròn méo méo như hình mấy cái bao tử, gan, lá lách... Sậy mọc khỏi đầu.
___Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh to nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp tứ phía. Rừng xán lạn(rực rỡ, chói lọi), ai dám nói là rừng âm u? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.
___Nó buột miệng:
___— Rừng cây gì vậy? Chú Tư.
___Tư Lập day lại, cười vang:
___— Thằng quỉ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao? Tràm chớ giống gì! Muôn ngàn hũ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay...
___Tư Lập ngâm mình dưới bưng(đồng lầy nước đọng, xung quanh toàn cây nhỏ như sậy, tranh) nãy giờ khá lâu rồi. Nước dâng lên nửa ngực. Hai tay chú quậy dưới bùn, chân bò tới lui, bọt nước sôi ùng ục. Chú rút lên một cây búa to tướng, nói huyên thiên (rùm trời):
___— Nó còn nguyên, mới tinh. Bộ(Hình như) trái đất xoay tròn sao mà! Hồi năm ngoái tao nhớ rõ ràng, nhận (đè xuống) ở gần gốc cây tràm bên kia. Bây giờ nó chạy qua bên nầy. Ðể tao rửa sạch cho mày coi. Cam đoan không có một bợn (mảng) sét, khuất dưới lớp bùn non, mưa nắng không sao thấu tới. Sét ăn hư hỏng là khi nào mình giữ không kín. Lòng người cũng vậy... Mầy chưa hiểu hả?
___Thằng Kim thật tình không hiểu câu nói lắc léo của Tư Lập. Nó không cần tìm hiểu. Cây búa khiến nó ngạc nhiên hơn: cán dài cỡ năm tấc(1 tấc = 10 cm), lưỡi cao hơn hai tấc, bề ngang lưỡi búa trên một tấc rưỡi, lớn như mấy cây búa thần mà các ông tướng hát bội thường vác ra khi đánh trận.
___— Cầm thử coi nặng không? Tay anh hùng mới cử(nhấc lên) nó được. Tạo ra lúa gạo, xuồng, chèo là nhờ nó. Nên nhà nên cửa, nên đất nên vườn, nên chồng nên vợ, xưng hùng xưng bá cũng nhờ nó.
___Tư Lập nói tiếp:
___— Ðói bụng chưa?
___— Hơi đói. Nãy giờ tôi lưỡng lự; gạo còn chừng hai nắm, không lẽ nấu cháo. Hay là mình kiếm nhà nào mượn đỡ.
___— Mượn gạo mà ăn, xưa quá! Ở xứ nầy, tao không muốn gặp mặt ai hết. Con người ta chết... không phải vì thiếu gạo. Tới lớn, mầy hiểu câu nói đó. Bây giờ đi với tao tìm nhà quen, bảnh(có gan) thì mày đi trước một lần coi!
___Nói vậy chớ Tư Lập bước trước, đạp lên choại(một loại dây leo), lên dớn (bãi cỏ trong sình lầy đọng nước) nghe sột soạt. Thay vì đi thẳng lại phía rừng tràm trắng tinh, thơm ngào ngạt, Tư Lập quẹo trở về phía rừng thấp lè tè, cây cối mọc so le hỗn loạn. Bùn non ngập mắt cá. Muỗi bay lợn cợn (tình trạng da nhiều lần tiếp xúc với vật nhỏ), vướng vít (vấn lấy) dưới chân cây còn u tối. Tư Lập khuyên nhủ:
___— Ráng chịu cực vậy! «Lô» rừng tràm đằng kia là của người ta. Rừng chồi phía nầy mới là của mình. Vắng hai năm nay, tao ngán rồi, không muốn nhớ lại cái mùi nhụy tràm.
___— Sao vậy?
___— Ðừng hỏi nữa. Tao muốn lánh mặt người quen. Mai chiều, có lẽ mình qua nơi khác. Gió thổi hiu hiu, buồn quá.
___Tư Lập thẩn thờ đôi mắt rồi bỗng nhiên khoát tay, ra dấu im lặng. Chú ngồi nép xuống. Thằng Kim cũng bắt chước, cúi đầu, ái ngại. Tư Lập cầm tay nó mà nói khẽ:
___— Ðừng động đậy, thở nhè nhẹ. Nó kìa...
___Thằng Kim ngớ ngẩn, liên tưởng đến thứ tai nạn khủng khiếp:
___— Co... ọp hả?
___— Nói bậy xui xẻo! Ong mật.
___Và nó định thần khi Tư Lập nói rõ thêm:
___— Ong mật... đi ăn bông. Bay rề qua rề lại, thấy chưa, thấp chủn trên đọt sậy kìa.
___Thằng Kim mừng rỡ:
___— Ngộ quá! Ổ nó ở đây đây, hả chú. Làm sao kiếm được? Ý! Nó lớn bằng hai con ruồi.
___Om sòm cái miệng! Về chống xuồng lại đây mau, tao chờ! Nhớ cái hộp quẹt máy.
___Thằng Kim hối hả làm y lời. Trở lại chỗ cũ, nó chợt nghe tiếng «hì» ở phía rừng tràm. Té ra nãy giờ Tư Lập lội tắt qua mương đi lại đằng ấy.
___Chú vội ngồi lên xuồng, chụp cây dầm, hờm (trong tư thế sẵn sàng xông vô) sẵn:
___— Bậy quá! Nó «đi bông» tới đây rồi mất dạng. Chờ một hồi nữa coi.
___— Ði bông là gì? Chú Tư.
___— Là đi hút nhụy bông... kìa, mê quá!
___Một con ong rồi hai con ong bay qua sát ngọn cỏ, lưng ngời những rằn xanh đỏ, hai chân sau quặp lại kẹp hai đốm vàng sậm mà thằng Kim đoán là nhụy bông. Ong vừa qua khỏi mươi thước. Tư Lập hối hả bơi xuồng theo. Nhưng hai con ong nọ lại đáp xuống, mất dạng. Chú nói:
___— Ðây là trạm thứ nhì của tụi nó. Rán chờ chút nữa. Chém chết tao cũng ăn được ổ nầy.
___Sau đôi ba lần theo dõi rồi dừng lại như vậy, Tư Lập bỗng cười vang, múa men tay chân như đứa trẻ thấy kẹo. Hàng trăm con ong bay chập chờn trước mặt, đáp xuống, vọt lên cao, không dời chỗ. Chú ngóng xem hướng gió trên ngọn cây, ra lịnh cho thằng Kim đứng im rồi chú đi khuất, chặp(một lúc) sau mang về một nắm rễ cây gừa.
___Hộp quẹt bật lửa lên. Nắm rễ gừa ngún cháy, khói bay đều. Chú nói nhỏ:
___— Ði theo tao, đừng chạy bất tử(thình lình) nghe!
___Chú phồng má thổi mạnh, khói tung bay mịt mù chưa tan là chú thổi thêm lần nữa, chân bước nhanh tới. Hiển hiện sau lớp khói mỏng kia, vật gì lạ thường như một trái cây khổng lổ, lớn bằng cái nia, đen ngòm, rực rỡ như nạm muôn ngàn hột thủy tinh chấp chóa...
___Thằng Kim há miệng:
___— Ổ ong hả? Ong đâu hết rồi?
___— Cả triệu con kết lại, nằm sắp lớp đen ngời, chớp cánh lia lịa đó không thấy sao! Ổ ở bên trong. Lên xuồng đi. Rủi bề gì tao với mầy thối lui, lặn dưới mương, úp chiếc xuồng nầy lại mà che...
___Tư Lập cầm nhánh cây khô gạt mạnh vào ổ; ong rớt xuống cỏ từng mảng, lần lần tan ra. Ổ ong khoe màu trắng tinh như sáp, treo trên khúc cây gác nghiêng: cây kèo.
___Chú quát:
___— Chống xuồng lại. Tao với mày khiêng nguyên ổ xuống. Dầu sao mình cũng mang tiếng ăn cắp của thiên hạ rồi.
___Ðặt dưới xuồng, ổ ong nức ra, mật vàng tươi chảy đọng vũng. Tư Lập chụp cây dầm, bơi trối chết, lướt qua sậy, qua năng(năn bọp mọc hoang dưới sông, ăn được). Thằng Kim cúi đầu sát ván, nhắm mắt, e (đề phòng) nhánh hai bên quật nhằm. Nó cười tươi khi thấy mái chòi hoang hiện ra trước mặt, Tư Lập trao cây dầm cho nó thò tay xé tàn ong:
___— Trời ơi! Tao hại tao! Tao ăn cắp... của tao.
___— Chú nói gì?
___- Miếng kèo bằng cây nhum. Hồi năm ngoái tao gởi nó lại cho người quen. Chữ «điền» tao khắc làm dấu rành rành.
___Cây rừng chuyển răng rắc. Ðâu đây có tiếng chưởi thề ỏm tỏi xen vào tiếng dầm khuấy nước. Tư Lập cau mày:
___— Họ đi theo dấu bắt tụi mình. Không khéo lại xảy ra đâm chém uổng mạng. Nhiều khi họ mạo nhận là của họ để hăm dọa mình. Lát nữa, mầy đừng yếu bóng vía... Cứ cãi lại cho tao.
___Thằng Kim giựt mình:
___— Chú đi đâu? Một mình tôi không dám...
___— Tao núp sau hè. Họ tới kìa! Cầm búa lên! Ðụng độ thì tao ra ăn thua.
___Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh to nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp tứ phía. Rừng xán lạn
___Nó buột miệng:
___— Rừng cây gì vậy? Chú Tư.
___Tư Lập day lại, cười vang:
___— Thằng quỉ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao? Tràm chớ giống gì! Muôn ngàn hũ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay...
___Tư Lập ngâm mình dưới bưng
___— Nó còn nguyên, mới tinh. Bộ
___Thằng Kim thật tình không hiểu câu nói lắc léo của Tư Lập. Nó không cần tìm hiểu. Cây búa khiến nó ngạc nhiên hơn: cán dài cỡ năm tấc
___— Cầm thử coi nặng không? Tay anh hùng mới cử
___Tư Lập nói tiếp:
___— Ðói bụng chưa?
___— Hơi đói. Nãy giờ tôi lưỡng lự; gạo còn chừng hai nắm, không lẽ nấu cháo. Hay là mình kiếm nhà nào mượn đỡ.
___— Mượn gạo mà ăn, xưa quá! Ở xứ nầy, tao không muốn gặp mặt ai hết. Con người ta chết... không phải vì thiếu gạo. Tới lớn, mầy hiểu câu nói đó. Bây giờ đi với tao tìm nhà quen, bảnh
___Nói vậy chớ Tư Lập bước trước, đạp lên choại
___— Ráng chịu cực vậy! «Lô» rừng tràm đằng kia là của người ta. Rừng chồi phía nầy mới là của mình. Vắng hai năm nay, tao ngán rồi, không muốn nhớ lại cái mùi nhụy tràm.
___— Sao vậy?
___— Ðừng hỏi nữa. Tao muốn lánh mặt người quen. Mai chiều, có lẽ mình qua nơi khác. Gió thổi hiu hiu, buồn quá.
___Tư Lập thẩn thờ đôi mắt rồi bỗng nhiên khoát tay, ra dấu im lặng. Chú ngồi nép xuống. Thằng Kim cũng bắt chước, cúi đầu, ái ngại. Tư Lập cầm tay nó mà nói khẽ:
___— Ðừng động đậy, thở nhè nhẹ. Nó kìa...
___Thằng Kim ngớ ngẩn, liên tưởng đến thứ tai nạn khủng khiếp:
___— Co... ọp hả?
___— Nói bậy xui xẻo! Ong mật.
___Và nó định thần khi Tư Lập nói rõ thêm:
___— Ong mật... đi ăn bông. Bay rề qua rề lại, thấy chưa, thấp chủn trên đọt sậy kìa.
___Thằng Kim mừng rỡ:
___— Ngộ quá! Ổ nó ở đây đây, hả chú. Làm sao kiếm được? Ý! Nó lớn bằng hai con ruồi.
___Om sòm cái miệng! Về chống xuồng lại đây mau, tao chờ! Nhớ cái hộp quẹt máy.
___Thằng Kim hối hả làm y lời. Trở lại chỗ cũ, nó chợt nghe tiếng «hì» ở phía rừng tràm. Té ra nãy giờ Tư Lập lội tắt qua mương đi lại đằng ấy.
___Chú vội ngồi lên xuồng, chụp cây dầm, hờm (trong tư thế sẵn sàng xông vô) sẵn:
___— Bậy quá! Nó «đi bông» tới đây rồi mất dạng. Chờ một hồi nữa coi.
___— Ði bông là gì? Chú Tư.
___— Là đi hút nhụy bông... kìa, mê quá!
___Một con ong rồi hai con ong bay qua sát ngọn cỏ, lưng ngời những rằn xanh đỏ, hai chân sau quặp lại kẹp hai đốm vàng sậm mà thằng Kim đoán là nhụy bông. Ong vừa qua khỏi mươi thước. Tư Lập hối hả bơi xuồng theo. Nhưng hai con ong nọ lại đáp xuống, mất dạng. Chú nói:
___— Ðây là trạm thứ nhì của tụi nó. Rán chờ chút nữa. Chém chết tao cũng ăn được ổ nầy.
___Sau đôi ba lần theo dõi rồi dừng lại như vậy, Tư Lập bỗng cười vang, múa men tay chân như đứa trẻ thấy kẹo. Hàng trăm con ong bay chập chờn trước mặt, đáp xuống, vọt lên cao, không dời chỗ. Chú ngóng xem hướng gió trên ngọn cây, ra lịnh cho thằng Kim đứng im rồi chú đi khuất, chặp
___Hộp quẹt bật lửa lên. Nắm rễ gừa ngún cháy, khói bay đều. Chú nói nhỏ:
___— Ði theo tao, đừng chạy bất tử
___Chú phồng má thổi mạnh, khói tung bay mịt mù chưa tan là chú thổi thêm lần nữa, chân bước nhanh tới. Hiển hiện sau lớp khói mỏng kia, vật gì lạ thường như một trái cây khổng lổ, lớn bằng cái nia, đen ngòm, rực rỡ như nạm muôn ngàn hột thủy tinh chấp chóa...
___Thằng Kim há miệng:
___— Ổ ong hả? Ong đâu hết rồi?
___— Cả triệu con kết lại, nằm sắp lớp đen ngời, chớp cánh lia lịa đó không thấy sao! Ổ ở bên trong. Lên xuồng đi. Rủi bề gì tao với mầy thối lui, lặn dưới mương, úp chiếc xuồng nầy lại mà che...
___Tư Lập cầm nhánh cây khô gạt mạnh vào ổ; ong rớt xuống cỏ từng mảng, lần lần tan ra. Ổ ong khoe màu trắng tinh như sáp, treo trên khúc cây gác nghiêng: cây kèo.
___Chú quát:
___— Chống xuồng lại. Tao với mày khiêng nguyên ổ xuống. Dầu sao mình cũng mang tiếng ăn cắp của thiên hạ rồi.
___Ðặt dưới xuồng, ổ ong nức ra, mật vàng tươi chảy đọng vũng. Tư Lập chụp cây dầm, bơi trối chết, lướt qua sậy, qua năng
___— Trời ơi! Tao hại tao! Tao ăn cắp... của tao.
___— Chú nói gì?
___- Miếng kèo bằng cây nhum. Hồi năm ngoái tao gởi nó lại cho người quen. Chữ «điền» tao khắc làm dấu rành rành.
___Cây rừng chuyển răng rắc. Ðâu đây có tiếng chưởi thề ỏm tỏi xen vào tiếng dầm khuấy nước. Tư Lập cau mày:
___— Họ đi theo dấu bắt tụi mình. Không khéo lại xảy ra đâm chém uổng mạng. Nhiều khi họ mạo nhận là của họ để hăm dọa mình. Lát nữa, mầy đừng yếu bóng vía... Cứ cãi lại cho tao.
___Thằng Kim giựt mình:
___— Chú đi đâu? Một mình tôi không dám...
___— Tao núp sau hè. Họ tới kìa! Cầm búa lên! Ðụng độ thì tao ra ăn thua.
Phần 6
___Nhanh như chớp, Tư Lập bước lui, ngồi khuất sau bụi mật cật (một loại cây bụi, lá kép rẽ quạt). Thằng Kim nhìn trước mặt. Hàng cây rung rinh, rẽ ra. Một người vạm vỡ cầm búa, bước tới:
___— Khôn thì chịu tội. Thằng kia, mầy ở xóm nào tới?
___Thằng Kim cố giữ sắc trầm tĩnh:
___— Tôi ở đây, mần ăn...
___— Ăn cắp chớ mần ăn? Tao theo dấu tụi bây nãy giờ. Công trình(Công sức) mấy tháng nay tao tạo sẵn để mày hưởng! Ðã ăn cắp mà lại còn gỡ luôn tấm kèo, chẳng khác nào ăn trộm rồi đốt luôn nhà của tài gia (tài chủ).
___— Tôi không biết gì hết...
___— Chém chết mẹ chớ không biết!
___Lưỡi búa của khách hươi lên. Thằng Kim cũng nâng cây búa một cách vụng về. Khách nhìn nó, ngạc nhiên rồi nhìn cây búa:
___— Mày ăn trộm búa nữa hả? Ráng mà đỡ, nè!
___Hoảng hốt, Tư Lập nhảy ra, nắm cườm tay người khách lạ:
___— Tao ở nhà ông hương giáo hồi xưa đây mà. Chú mầy đến sau nên không biết rõ tao là ai.
___Khách trố mắt:
___— Trời! Cậu Tư. Về hồi nào! Trời... nãy giờ thấy cây búa, tôi hồ nghi là của cậu. Sao không lại thăm cô Hoàng Mai?
___Tư Lập vuốt mồ hôi trán:
___— Thôi! Về đi. Nhắn với ông hương giáo rằng tối nay tao tới.
___Khách nói:
___— Buồn lắm! Cô Hoàng Mai yếu nhiều.
___Tư Lập thở dài:
___— Vậy hả? Ðừng nói nữa. Về trước đi.
___Khách rút lui. Tư Lập nói ngậm ngùi:
___— Trốn mà không khỏi. Trốn Tây tà là chuyện dễ; trốn người quen là chuyện khó hơn. Ta ăn cắp ổ ong khi nãy mà chi? Nghề ăn ong có nghiệp chướng... Ðây là ổ ong cuối cùng của tao trong nghề...
___Thằng Kim hỏi:
___— Sao vậy? Ai đau nhiều vậy chú? Cô Hoàng Mai là người bà con...
___— Bà con không phải bà con. Người dưng không phải người dưng. Tối nay mầy thay mặt tao, lại đó mà thăm ông hương giáo. Phần tao, tao phải xa rừng nầy. Ở lại đây, mầy có dịp học khôn. Ðừng buồn. Ðể tao nói lại đầu đuôi sự tích, hồi năm trước...
___Nghe xong thằng Kim đi từng bước chậm rãi đến nhà ông hương giáo. Câu chuyện tình của Tư Lập hãy còn lâng lâng trong trí nó. Gió chiều nhẹ thổi. Mùi bông tràm ngào ngạt. Nó nhìn từng gốc cây, lắng nghe từng tiếng lá trở mình mà khoan khoái trong lòng. Rừng U-minh này đối với nó cơ hồ không còn gì là bí mật khó hiểu nữa.
___— Khôn thì chịu tội. Thằng kia, mầy ở xóm nào tới?
___Thằng Kim cố giữ sắc trầm tĩnh:
___— Tôi ở đây, mần ăn...
___— Ăn cắp chớ mần ăn? Tao theo dấu tụi bây nãy giờ. Công trình
___— Tôi không biết gì hết...
___— Chém chết mẹ chớ không biết!
___Lưỡi búa của khách hươi lên. Thằng Kim cũng nâng cây búa một cách vụng về. Khách nhìn nó, ngạc nhiên rồi nhìn cây búa:
___— Mày ăn trộm búa nữa hả? Ráng mà đỡ, nè!
___Hoảng hốt, Tư Lập nhảy ra, nắm cườm tay người khách lạ:
___— Tao ở nhà ông hương giáo hồi xưa đây mà. Chú mầy đến sau nên không biết rõ tao là ai.
___Khách trố mắt:
___— Trời! Cậu Tư. Về hồi nào! Trời... nãy giờ thấy cây búa, tôi hồ nghi là của cậu. Sao không lại thăm cô Hoàng Mai?
___Tư Lập vuốt mồ hôi trán:
___— Thôi! Về đi. Nhắn với ông hương giáo rằng tối nay tao tới.
___Khách nói:
___— Buồn lắm! Cô Hoàng Mai yếu nhiều.
___Tư Lập thở dài:
___— Vậy hả? Ðừng nói nữa. Về trước đi.
___Khách rút lui. Tư Lập nói ngậm ngùi:
___— Trốn mà không khỏi. Trốn Tây tà là chuyện dễ; trốn người quen là chuyện khó hơn. Ta ăn cắp ổ ong khi nãy mà chi? Nghề ăn ong có nghiệp chướng... Ðây là ổ ong cuối cùng của tao trong nghề...
___Thằng Kim hỏi:
___— Sao vậy? Ai đau nhiều vậy chú? Cô Hoàng Mai là người bà con...
___— Bà con không phải bà con. Người dưng không phải người dưng. Tối nay mầy thay mặt tao, lại đó mà thăm ông hương giáo. Phần tao, tao phải xa rừng nầy. Ở lại đây, mầy có dịp học khôn. Ðừng buồn. Ðể tao nói lại đầu đuôi sự tích, hồi năm trước...
___Nghe xong thằng Kim đi từng bước chậm rãi đến nhà ông hương giáo. Câu chuyện tình của Tư Lập hãy còn lâng lâng trong trí nó. Gió chiều nhẹ thổi. Mùi bông tràm ngào ngạt. Nó nhìn từng gốc cây, lắng nghe từng tiếng lá trở mình mà khoan khoái trong lòng. Rừng U-minh này đối với nó cơ hồ không còn gì là bí mật khó hiểu nữa.
Phần cuối
___Ðến nhà ông hương giáo, nó được thết đãi cơm nước tử tế. Ông hương giáo không nói chuyện nhiều. Nó nói dối rằng... chừng lát nữa Tư Lập sẽ đến. Nhưng Tư Lập có đến đâu! Ðêm đó, nó được nằm ngủ trên ván gõ, trải chiếu bông, giăng mùng rộng rãi. Nửa đêm, nó chợt tỉnh vì ánh đèn chói mắt.
___Ông hương giáo nói:
___— Chú em thức hả! Kìa! Trên bàn thờ, từ bao năm rồi, tôi luyện «ngọc ong» để trị bịnh. Bịnh gì chắc Tư Lập nói sơ cho chú em hiểu rồi. Tôi buồn quá. Tư Lập không trở lại nhà nầy nữa đâu. Chú em cứ nói thiệt. Phải vậy không?
___Thằng Kim nói:
___— Dạ cháu không biết. Chú Tư không nói rõ...
___— Ta hiểu lắm. Dầu sao, trở về lần này, Tư Lập cũng đã tỏ ra có nghĩa! Ai nỡ câu thúc chí trai của mình trong một xó để đổi lấy chữ nhàn? Ai nỡ bỏ cái danh dự để mua chuộc một chức tước quí phái huyền hão. Từ xưa, tằng tổ của ta cũng vì khí khái ấy mà phò Chúa, xiêu lạc đến đây! Bây giờ ta yếu lắm rồi. Dầu muốn bắt chước Tư Lập, ta cũng không còn đủ sức lực mà bắt chước. Gia thế của ta, thiên hạ đã rõ. Câu thúc Tư Lập ở mãi tại đây chăng? Ta chỉ là người hương giáo, quyền hạn gì? Ừ! Tội là tội cho Hoàng Mai. Năm nay, nó ngồi một chỗ, không còn đủ sức mà ra thăm cội hoàng mai ngõ trước, như hồi Tư Lập biết...
___Sáng hôm sau, thằng Kim từ giã ông hương giáo rồi đến ngồi bên mé rạch. Bông vừng tươi thắm, cây cối hai bên bờ giao đầu lại, mát mẻ. Nó chờ đón bất cứ xuồng ghe ai, đi về đâu cũng được, để quá giang. Sau lưng nó, trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng...
___Ông hương giáo nói:
___— Chú em thức hả! Kìa! Trên bàn thờ, từ bao năm rồi, tôi luyện «ngọc ong» để trị bịnh. Bịnh gì chắc Tư Lập nói sơ cho chú em hiểu rồi. Tôi buồn quá. Tư Lập không trở lại nhà nầy nữa đâu. Chú em cứ nói thiệt. Phải vậy không?
___Thằng Kim nói:
___— Dạ cháu không biết. Chú Tư không nói rõ...
___— Ta hiểu lắm. Dầu sao, trở về lần này, Tư Lập cũng đã tỏ ra có nghĩa! Ai nỡ câu thúc chí trai của mình trong một xó để đổi lấy chữ nhàn? Ai nỡ bỏ cái danh dự để mua chuộc một chức tước quí phái huyền hão. Từ xưa, tằng tổ của ta cũng vì khí khái ấy mà phò Chúa, xiêu lạc đến đây! Bây giờ ta yếu lắm rồi. Dầu muốn bắt chước Tư Lập, ta cũng không còn đủ sức lực mà bắt chước. Gia thế của ta, thiên hạ đã rõ. Câu thúc Tư Lập ở mãi tại đây chăng? Ta chỉ là người hương giáo, quyền hạn gì? Ừ! Tội là tội cho Hoàng Mai. Năm nay, nó ngồi một chỗ, không còn đủ sức mà ra thăm cội hoàng mai ngõ trước, như hồi Tư Lập biết...
___Sáng hôm sau, thằng Kim từ giã ông hương giáo rồi đến ngồi bên mé rạch. Bông vừng tươi thắm, cây cối hai bên bờ giao đầu lại, mát mẻ. Nó chờ đón bất cứ xuồng ghe ai, đi về đâu cũng được, để quá giang. Sau lưng nó, trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng...
Last edited: