“Nguyên tắc không tạo ra tác phẩm, tác phẩm tạo ra nguyên tắc.” (Alain)
Tôi nghĩ vấn đề của môn Văn trong giáo dục Việt Nam, và cũng như tất cả môn khác, là ở chỗ họ là các nhà sư phạm tốt quá, đến nỗi, khi cần làm cho việc giáo dục dễ hơn (tức là dễ học, dễ chấm, dễ dạy, …) họ bóp méo luôn cái họ dạy, cho dễ làm việc hơn. Chương trình giáo dục môn Văn, bằng cách chọn những cái tầm tầm dễ đọc, thất bại trong việc trình hiện con đường văn chương Việt Nam. Dạy học, trước hết, là phải làm cho kinh ngạc, người học trò phải kinh ngạc bởi người thầy của mình thì việc học mới thực sự bắt đầu, Aristotle từng bình luận khả năng kinh ngạc rất riêng của con người.
Dạy viết văn nghị luận? Tôi sẽ bảo là hãy cho học sinh chép lại 10 bài báo của ông Phan Khôi. Trong thời tiền chiến, trí thức Việt Nam có một tầm vóc lớn đến kỳ lạ, các tờ báo là bãi chiến trường cho thế hệ huyền thoại này, thế hệ phải lựa chọn con đường cho Việt Nam, sự phê bình giữa những người cùng thời, một lời phê bình có thể được đáp trả ngay vào ngày hôm sau, rồi tiếp tục sau đó là những bài viết tranh luận xoay quanh vấn đề mãi không ngừng, đời sống trí thức trên báo kéo dài đến khi Việt Nam đã chọn xong con đường của mình. Nhiều nhân vật thế hệ này đã đọc những gì ở mức cao nhất của trí thức Âu Mỹ cùng thời. Và chương trình Văn học đã bỏ qua ông Phan Khôi, ngự sử văn đàn thời kỳ này. Môn văn thất bại khi nó không cho học sinh biết những người trí thức để ngưỡng mộ và vượt qua, đọc Phan Khôi thì dễ thoát được nhiều thứ nhảm nhí.
Dạy phân tích văn học? Tôi sẽ bảo là hãy để học sinh chép lại các text của ông Phan Ngọc. Giáo dục đã làm ngớ ngẩn và cùn đi văn chương khi đánh đồng phân tích và cảm nhận. Cảm nhận là việc của đọc một lần, thậm chí không cần đọc hết cũng có thể lên một cơn hysteria để mà cảm động với cảm nhận. Phân tích là việc của đọc một lần? Không hẳn. Đọc nhiều lần? Không hẳn. Phân tích là việc của đọc hết. Lúc ông Phan Ngọc viết: “Trong Kiều chỉ có 575 câu tự sự (17,5% tác phẩm). […. ] Chỉ riêng những câu của tác giả dùng để phân tích nội tâm của nhân vật đã chiếm 775 câu thơ tức là 24,2% tác phẩm, một tỉ lệ phải nói là khủng khiếp.”, để chứng minh từ Truyện Kiều thì văn chương Việt Nam bắt đầu vào pha của tiểu thuyết hiện đại (thời tiền chiến ngoài Thơ Mới còn là sự bùng nổ của thể loại tiểu thuyết), thì đó chẳng có liên quan gì đến cảm xúc với cảm nhận, đó là fact, là sự vị.
Tương tự, khi Đỗ Long Vân viết việc truyện kiếm hiệp Kim Dung khác với kiếm hiệp cổ điển ở chỗ người anh hùng trong truyện Kim Dung xuống núi để thấy cái đạo mình chưa đủ (còn anh hùng trong kiếm hiệp cổ điển xuống núi thì không hề thay đổi đạo của mình cho đến cuối truyện) trùng với thời kỳ Trung Quốc bắt đầu nhìn ra thế giới, thì đó cũng là fact, và ý kiến tác giả chẳng thay đổi được gì những sự vị này, thế hệ mới trở nên khác biệt mà không nhận ra sự khác biệt của mình, chuyện bình thường. Để phân tích thì sau khi đọc một tác phẩm, còn phải đọc hết, đọc đến kiệt cùng các tác phẩm xung quanh nó.
Vấn đề là phải cho học sinh đọc những gì ở mức cao nhất của văn chương Việt Nam, để có đặc ân được kinh ngạc, chứ không phải mấy thứ tầm tầm văn mẫu giúp việc dạy và chấm dễ hơn. Nguyễn Tuân phải là “Thiếu quê hương” và “Chùa Đàn” chứ.