Anh lội lại mấy pages cũ, mô có nhắc tới. Sách mang tính bổ sung góc nhìn cho đa dạng. Tuy có đôi chút lý thú nhưng cơ bản là ko cung cấp thêm dẫn chứng hay cách suy luận gì mới. Một số phần được viết khá sơ sài, ko biết là do trải nghiệm hay do hạn chế về cứ liệu.
Phật Giáo Việt Nam có nhiều hệ phái với quan niệm Phật Học và giới luật có đôi chút khác nhau trong đó 2 nhánnh chính Đại Thừa và Thượng Toạ bộ là có sự khác biệt nhiều hơn cả, Trong số các hệ phái này có một nhánh tách ra từ Đại Thừa nhưng ko công nhận mình thuộc 2 nhánh chính trên là Thiền Tông, Phái Thiền Tông này cùng với tâm pháp huyền hoặc của Lão Gíao, taọ ra một hệ phái lớn ở TQ,VN và Nhật. Tuy nhiên trường hợp khá đặc biệt trong số đó là thầy Hạnh, một khái niệm mới về Phật Giáo dấn thân, tuy có đôi chút tranh cãi nhưng tựu chung lại là mang Phật Giáo đến gần hơn với quảng đại quần chúng thay vì các kinh kệ viết theo lối cũ, giảng giải đạo pháp sáo rỗng theo kinh sách. Thêm vào đó Thầy Hạnh vượt qua được sự sáo mòn của khuôn khổ,xoá nhoà khoảng cách giữa các hệ phái, thay vì cố bám víu vào Phật bảo và Pháp Bảo. Thầy Hạnh chú trọng nhiều hơn ở truyền dạy trực tiếp của tăng ni và phát triển một số kiến giải mới về "Pháp của ta".
Nói về thầy Hạnh và Thiền Tông một chút để có thể hiểu được nền tảng Đạo Đức Viễn Đông nói chung là giảng dạy về tư tưởng "Dĩ bất biến ứng vạn biến" nó không đi vào chi tiết mà chủ yếu phát triển nền tảng nhận thức, phần còn lại sẽ do chủ thể tự suy niệm. Phật học, Lão Học cùng với Khắc Kỷ là 3 tư tưởng rất khác biệt so với phần còn lại của loài người. Vì thay vì đi bên ngoài, nó đi vào trong, nó chú trọng giải quyết các vấn đề chủ thể bằng chính chủ thể. Đối chiếu với nhận thức của Triết học Phương Tây thì ở đây các tư tưởng này đang quan niệm về "tính thụ nhận" của nhận thức <Tức con người có quan năng nhận thức được thế giới, nhưng con người không có quan năng thay đổi được nhận thức của thế giới, chỉ có thể tự "khởi phát" suy tưởng chính bản thân mình, nên các vấn đề gặp phải của con người chỉ có thể là do bản thân nhận thức chủ quan, không ảnh hưởng bởi vật chất khác quan>.
Điểm qua một số nét về nền tảng của các vấn đề anh nêu trên, Các nan đề anh nêu có nguồn gốc khá lâu dài. Xuất phát đầu tiên có thể kể tới là từ thời Empicurus với thuyết hưởng lạc (hoàn toàn ko hề có ý nghĩa giống với nghĩa của chữ này trong tiếng Việt), Tuy nhiên người thật sự đặt nền móng cho nó là Jeremy Bentham, và rất nổi tiếng với tác phẩm "Thuyết Công Lợi" (Utilitarianism) của Mill . Trong số các trường phái của Thuyết Vị Lợi/ Công Lợi, Mill là người hơn tất cả phản đối việc "lượng hoá" sự hữu ích, trong đó cho rằng không thể tính toán được việc thoả mãn cao thơn hay thoả mãn thấp hơn. <Ngoài lề, Trong suốt giai đoạn phát triển của Thuyết vị lợi, nó dấy lên rất nhiều tranh cãi về "Theo đuổi hạnh phúc", Aristotle trong một chương của Nicomamchean ethics nói rằng chấp nhận một cuộc sống tốt đẹp đi cùng với một cuộc sống hưởng thụ là thích một cuộc sống phù hợp với những con thú>. Cho đến giữa TK XX, thuyết Công lợi lại một lần nữa được bàn tán với bước phát triển mới của Chủ nghĩa thực tế hành động và chủ nghãi thực tế nguyên tắc. Tranh cãi lớn nhất giữa 2 chủ nghĩa này vì : Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc thất bại hoàn toàn trước Chủ nghĩa thực tế hành động, vì dù có bất kì nguyên tắc nào, trong trường hợp phá bỏ Luật để làm được những việc hữu ích, các nguyên tắc có thể được sửa đổi bằng cách thêm một số nguyên tắc phụ để giải quyết những trường hợp được xem là ngoại lệ.Điều này sẽ đúng cho tất cả các trường hợp ngoại lệ, và vì vậy các “nguyên tắc” có bao nhiêu trường hợp ngoại lệ thì có bấy nhiêu nguyên tắc phụ được thêm vào, điều này, về mặt mục đích, làm cho các nhà kinh tế có thể làm bất kì điều gì để tạo ra lợi ích cho mình. <Nguyên gốc của Trolley Problem chính được đưa ra trong giai đoạn này>.
Giờ nói về các ví dụ của anh, thực ra nó chỉ mới bắt đầu được lật trở lại khoảng năm 2009-2010 khi GS M.Sandle cho phát sóng miễn phí khoá học Công Lý của ông ở Trường Luật Harvard gây nên tranh luận sôi nổi. Cơ sở lý luận thực ra khá hạn chế, vì nó dựa trên tiên đề "hệ quả được dự đoán trước", ví dụ trong Trolley Problem của anh, khi anh bẻ cua nhưng hoá ra cái cua đấy ko thực hiện đựợc, tàu vẫn chạy như cũ. Anh đứng nguyên về nhìn thấy một Fatman đang đứng trên lan can của ray, và nếu anh đã lựa chọn đẩy người đàn ông đấy xuống thì vừa cứu được 5 người công nhân vừa cứu được đoàn tàu. Nhưng liệu anh có làm ko??? Mỗ có thể chỉ cho anh hàng đống nan đề mà thuyết Vị Lợi ko thể giải quyết được vì nó còn một số vấn đề khó khăn hơn nữa là
- Những mục tiêu để tối đa hoá lợi ích: Anh liệu còn vô tư khi thực hiện khi cái anh Fatman kia chính là người cướp mất bạn gái của anh, ko ai biết được điều đó ngoài anh. Liệu lựa chọn của anh là gì?
- Tính toán lợi ích tối đa taọ ra sự thất bại: Trong thời gian anh chờ cân nhắc thì thời cơn để anh thực hiện nó đã qua, lúc đấy ai là người đáng trách?
- Lợi ích tổng hợp: Trong cảnh quay cuối của Batman 2008, có cảnh 2 chiếc phà được cài chất nổ một chiếc chở toàn tù nhân và một chiếc phà chở dân thường nhiều trẻ em. Kíp nổ được giữ chéo, trong trường hợp 1 trong 2 ko kích nổ thì sẽ tự động kích nổ cả 2. Anh thử dùng Công Lợi giải quyết nan đề này xem.
Mỗ ở đây chỉ lướt qua vài điểm cơ sở và phân tích ví dụ cho anh thấy, còn Marx trong bộ Tư Bản còn chỉ trích nó dữ dội hơn mà không trích ra ở đây vì nó khá trừu tượng.