Ngoại truyện: Trương Học Lương
Phần 46 và 47 đều có nhắc đến 1 nhân vật lịch sử là Trương Học Lương, post này do dịch giả tạo ra để giới thiệu với độc giả về Trương Học Lương.
Thời Dân quốc, Trung Hoa bị chia cắt do rất nhiều thế lực nắm giữ đất đai, chiến loạn liên miên để tranh giành tài nguyên, thế lực. Ngoài khu vực chịu sự khống chế của chính phủ trung ương (chính phủ Bắc Dương và sau là chính phủ Quốc Dân Đảng), trong lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc có tới 17 đạo quân phiệt và còn tồn tại rất nhiều chính quyền địa phương, trong đó có chính quyền Ngoại Mông Cổ, chính quyền Tây Tạng, chính quyền Đảng Cộng sản và chính quyền bù nhìn của Nhật Bản từng tuyên bố độc lập. Các thế lực này lại được sự ủng hộ về ngoại giao, kinh tế, quân sự từ các cường quốc Nhật, Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô.
Đây được coi là một trong những thời kì loạn lạc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Có thể dùng tình cảnh thời kì chư hầu cát cứ thời tiền Tam quốc để hình dung tình thế Trung Hoa lúc bấy giờ. Cha của Lương là Trương Tác Lâm - thủ lĩnh quân phiệt Đông Bắc, từng được xưng là Đông Bắc Vương đã kéo quân về khống chế Bắc Kinh, sau lại thần phục nhà Thanh để hợp sức chống Nhật nhưng vẫn giữ địa vị độc lập do có quân đội hùng mạnh. Trương Học Lương là con cả, được mệnh danh là Thiếu soái, đứng đầu Dân quốc Tứ công tử (gồm có Trương Học Lương, Viên Khắc Văn - con Viên Thế Khải và một số người khác tùy ý kiến như: Phổ Đồng - hoàng tộc Mãn Thanh, con của Gia Quận vương Hàm Cung Cần; Tôn Khoa - con trai của Quốc phụ của Trung Hoa Dân Quốc Tôn Trung Sơn; Trương Bách Câu - con trai Đô đốc Trực Lệ: Trương Trấn Phương..v.v... ) và Dân Quốc tứ đại mĩ nam tử (gồm Chu Ân Lai, Uông Tinh Vệ, Mai Lan Phương).
Năm 18 tuổi, ông theo học trường quân sự Phụng Thiên, tốt nghiệp hạng nhất khoa pháo binh 1 năm sau đó. Sau khi ra trường, ông công tác dưới quyền cha mình và thăng tiến nhanh chóng. Năm 1928, khi Trương Tác Lâm bị người Nhật ám sát, ông được các thủ hạ của cha mình tôn lên làm thủ lĩnh quân Đông Bắc. Ông nổi tiếng với tư tưởng kháng Nhật gay gắt. Sau cái chết của cha, ông đã ra tay giết hại Dương Vũ Đình vì hiểu lầm người này hàng Nhật, cũng quyết tuyệt ra lệnh giết Trương Học Thành vốn là anh họ mình vì đã đầu nhập quân Nhật.
Ông đã thi hành cải cách kinh tế, chính trị, quân sự khiến quân Đông Bắc trở thành lực lượng đáng gờm trong phe Phụng Hệ thời kì quần hùng cát cứ. Ngay sau khi nhậm chức ông đã gửi điện báo tới Tưởng Giới Thạch (lúc này đã đứng đầu chính phủ Quốc dân) và các phe phái khác, khẳng định lập trường yêu nước thương dân, quyết không ngả theo Nhật. Vì sự thống nhất đất nước, để tránh cho Trung Hoa rơi vào cảnh nồi da xáo thịt trong lúc ngoại địch Nhật Bản chuẩn bị thôn tính, ông cùng các thủ hạ tuyên bố trở cờ, ly khai chính phủ Bắc Dương (do Viên Thế Khải thành lập, sau đó đến cha ông đứng đầu), phục tùng chính phủ Quốc dân đảng.
Năm 1930, khi Tưởng đại chiến với Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn (2 thủ lĩnh quân phiệt khác) ông đã dẫn quân giúp Tưởng dẹp loạn, giúp Tưởng thống nhất, giải tán các phe phái của Uông Tinh Vệ (người đứng đầu chính phủ bù nhìn thân Nhật). Ông được phong làm Thiếu Soái, phó tổng tư lệnh Hải Lục Không quân Trung Hoa khi mới 29 tuổi. Có thể nói, do sự quy thuận của Trương Học Lương, Tưởng Giới Thạch đã dễ dàng chấm dứt cục diện quân phiệt rối loạn, hoàn tất công cuộc thống nhất Trung Quốc.
Năm 1931, quân Nhật tấn công và chiếm lĩnh vùng Đông Bắc, đưa Phổ Nghi lên để lập ra nhà nước Mãn Châu
(phim The Last Emperor do bác Tôn Long đẹp trai vcđ đóng chính hay lắm, xem để hiểu rõ thêm về thời kì chuyển giao loạn lạc này ae ạ). Sau đó người Nhật tấn công Thượng Hải, tiến tới đánh chiếm toàn bộ Trung Hoa. Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng này, các phe phái quân phiệt trong nước vẫn đang liên tục nội chiến. Tưởng chủ trương nhượng bộ quân Nhật, muốn ưu tiên dẹp nội loạn bằng vũ lực “Muốn chống ngoài tất phải an trong”. Do đó, khi quân Nhật pháo kích vào đại bản doanh quân đội Dân quốc tại Thẩm Dương mà không hề gặp chống trả đã dễ dàng chiếm lĩnh nơi này, cả vùng Đông Bắc rộng 1,3 triệu km2 bị quân Quan Đông khống chế.
Năm 1936, Hồng quân của Mao Trạch Đông tiến đến Thiểm Bắc, Tưởng điều động các tướng Trương Học Lương dẫn quân Đông Bắc, Dương Hổ Thành chỉ huy quân Tây Bắc, Hồ Tông Nam cầm quân Trung ương tiến lên Thiểm Bắc đánh Hồng quân. Lương cám cảnh nước mất nhà tan, người trong nước nội chiến nên đã tìm mọi cơ hội khuyên can Tưởng đình chỉ nội chiến, Quốc Cộng hợp tác một lòng kháng Nhật, phía Mao cũng nhiều lần đề nghị hợp tác nhưng đều bị Tưởng cự tuyệt. Điều này xuất phát từ việc Tưởng có tư tưởng cực đoan, thù ghét và kiên quyết chống Cộng sản đến cùng, nhất quyết không chịu bắt tay với Mao dù phải đối đầu với phát xít Nhật và sự lăm le của Liên Xô.
Do chịu ảnh hưởng của Đảng Cộng sản về tư tưởng đoàn kết chống Nhật nên 2 tướng Lương, Thành đã cố tình trì hoãn việc tiến công. Lúc này, Tưởng đã nhận được tình báo của trùm mật vụ Đới Lạp về việc Lương tiếp xúc với yếu nhân của Hồng quân. Tưởng đã chỉ thị cho Đới Lạp làm rõ việc này nhưng trong đầu Tưởng cũng bị các tin tình báo rằng Trương Học Lương và Dương Hổ Thành bất hòa làm rối trí, hơn nữa lại tin tưởng Lương là người trung nghĩa quyết không làm phản nên dần bỏ qua tin tình báo bất lợi về Lương.
Tối 12/12/1936 hai tướng Trương, Dương đã bao vây bắt sống Tưởng và bộ hạ đưa về Tây An giam lỏng. Sau đó hai tướng tuyên bố giải tán Tổng bộ chỉ huy tiễu phỉ Tây Bắc (phỉ ở đây là quân Cộng sản của Mao), thành lập Ủy ban Quân sự lâm thời Liên quân Tây Bắc kháng Nhật do Trương làm Chủ tịch, Dương làm Phó chủ tịch. Vào thời đó, đây là quyết định trọng đại, ảnh hưởng đến bánh xe lịch sử, giúp cho đất nước Trung Hoa tiến vào giai đoạn Quốc Cộng hợp tác kháng Nhật. Bản thân việc ông khống chế Tưởng Giới Thạch cũng không khác gì tạo phản hay Tào Tháo hiếp thiên tử lệnh chư hầu, gây ra tiếng nổ lớn trong dư luận lúc đó.
Khi
Tưởng bị bắt, Lương đã gửi thông điện báo với quốc dân giải thích việc bắt Tưởng là để tạo áp lực cho 2 đảng Quốc Cộng thống nhất, kêu gọi toàn dân đoàn kết chống Nhật, đề xuất các yêu cầu đình chỉ nội chiến, mở hội nghị cứu quốc, đồng thời mời đại biểu của ĐCS Trung Quốc là Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh… đến Tây An đàm phán hòa bình. Lúc này các ủy viên trung ương của chính phủ Nam Kinh đã mở hội nghị khẩn cấp. Tuy nhiên do các tướng ở Nam Kinh đứng đầu là Hà Ứng Khâm là phe thân Nhật, không đồng ý thỏa hiệp với Lương và đình chiến. Hội nghị quyết định cắt mọi chức vụ và bắt Lương về quy án, chuẩn bị quân lực thảo phạt quân phiến loạn, thậm chí ném bom Tây An.
Lúc đó, Tống Mỹ Linh, vợ Tưởng đã đến phủ đầu các tướng Nam Kinh, mắng họ là hồ đồ vì việc thảo phạt Tây An sẽ gây ra nội chiến trong nội bộ phe Dân Quốc. Bà ta biết cuộc binh biến này sẽ ảnh hưởng đến toàn thế giới khi chính phủ Dân Quốc đang nhận sự tài trợ rất lớn của Anh, Mỹ. Nếu có nội chiến thì chính phủ cũng tan rã mà Tưởng thì hiển nhiên là mất mạng. Lúc đó Liên Xô đang tập trung đánh phát xít Đức, muốn Quốc Cộng hợp tác chống Nhật để họ không phải đánh cả Nhật lẫn Đức trên hai mặt trận nên đã yêu cầu Lương thả Tưởng, chấm dứt nội chiến, bên Mao cũng sẵn sàng hợp tác, cử Chu Ân Lai đến Tây An giúp Lương giải quyết sự biến.
Tưởng khi biết mình bị bắt cóc thì nghi ngờ Lương muốn binh biến để hại mình cướp binh quyền nên tỏ thái độ bất hợp tác, không hội đàm với Lương thậm chí tuyệt thực. Hà Ứng Khâm biết Tưởng vẫn chưa hợp tác với Lương nên đã đưa mười mấy sư đoàn đánh Tây An, cho quân thả bom. Bành Đức Hoài của phe Cộng Sản cũng dẫn quân đến phối hợp với Trương Học Lương, Dương Hổ Thành giúp đánh Hà Ứng Khâm. Hai bên chuẩn bị đại chiến quy mô lớn. Khi Tống Mỹ Linh từ Nam Kinh đến nói rõ âm mưu của phe Hà Ứng Khâm muốn nhân cơ hội này diệt Tưởng thì Tưởng mới thay đổi thái độ, hội đàm với phe Cộng sản quyết định bắt tay chống Nhật.
Khi mọi người đang hoang mang có nên thả Tưởng về Nam Kinh không, sợ Tưởng trở mặt thì Lương kiên quyết thả Tưởng về, đã nói: “...Tôi vì sao dám phạm tội đại nghịch, bắt giữ Tưởng Giới Thạch, ấy là nhằm đình chỉ nội chiến, một lòng kháng Nhật. Nếu cứ trù trừ không quyết thì nội loạn còn lớn hơn hiện nay rất nhiều. Nếu tôi làm cho quốc gia nội loạn thì tôi là thiên cổ tội nhân, vậy tôi sẽ tự sát, tạ tội với quốc dân…” Tất cả đều cảm kính chân tình của thiếu soái, nhất trí thả Tưởng về Nam Kinh. Ngày 25/12/1936, nhiều người đã ngăn cản, Chu Ân Lai đến tận sân bay khuyên can nhưng Lương vẫn khẳng khái tháp tùng Tưởng Giới Thạch bay về Nam Kinh để đảm bảo uy tín cho lãnh tụ dù biết đã lên máy bay thì sẽ bị bắt giam, thậm chí mất mạng.
Sau khi về tới Nam Kinh, Tưởng đã bắt giam Trương Học Lương. Từ đây, quân phiệt Đông Bắc tan rã. Sau đó, Trương Học Lương bị giam ở nhiều nơi đến năm 1975 khi Tưởng chết thì được thả. Trước khi chết, Tưởng Giới Thạch dặn dò con ruột Tưởng Kinh Quốc rằng “Trương Học Lương là hổ trong lưới, không được thả về.” Nhưng Tưởng Kinh Quốc vốn trọng Trương Học Lương là anh hùng nên đã cho ông tự do. Cuối đời ông tới Hoa Kỳ sinh sống. Năm 2001 ông mất tại Hawaii, hưởng thọ 100 tuổi.