Joachim von Ribbentrop
Senior Member
Tranh luận chút về chủ đề xu hướng giảm sinh trong xã hội thời hiện đại chút cho vui.
Thuở xưa, nền kinh tế chủ yếu ở các xã hội là nông nghiệp, kỹ thuật canh tác lạc hậu-bị giới hạn bởi thời vụ nên đòi hỏi phải có sự quần cư và cần huy động số lượng lao động lớn. Trong một phạm vi đất nông nghiệp rộng lớn, nếu phân đơn vị canh tác theo hộ gia đình thì một gia đình nhiều lao động sẽ có lợi hơn một gia đình ít lao động hơn-qua đây, xét rõ đến sự tác động của số lượng nhân khẩu(tính cả người ngoài độ tuổi lao động nói chung) trong gia đình. Số lượng nhân khẩu nhìn chung bị giới hạn bởi lượng lương thực có đủ khả năng nuôi sống các thành viên hay không; tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ tử vong do y học kém phát triển, chết trận... Và thường là các tỷ lệ cao, cộng thêm yếu tố tuổi thọ tương đối thấp thì việc sinh nhiều con nhằm bù đắp cho lượng dân số tử vong lớn. Trở lại thực tế một chút, các bác nào 7x, 8x, 9x đời đầu, xuất thân nông thôn, đã từng kinh qua tuổi thơ nơi đồng ruộng chắc chắn sẽ hiểu làm nông cực nhọc đến mức nào, nếu một gia đình có 1 mẫu ruộng trong khi chỉ có 3 lao động chính, thì gần như không đủ khả năng canh tác nếu ko đổi công với các gia đình khác, và sẽ là tai hoạ nếu 1 trong 3 lao động kia ốm bệnh, đột ngột bị gọi nhập ngũ hoặc qua đời( trường hợp thường xuyên rơi vào trưởng nam của gia đình).
Ở đây, có một yếu tố lớn là văn hoá, phong tục. Mình chỉ đề cập đến xã hội nông thôn miền Bắc, nơi uy thế, địa vị cá nhân của nam giới thuở xưa được định đoạt một phần qua việc ông ta có bao nhiêu con, có con trai nối dõi hay không. Với người có địa vị chức tước và tương đối giàu có thì câu hỏi thêm là ông ta có bao nhiêu bà vợ nữa, mà cứ sự thường, nhiều vợ dứt khoát phải có nhiều con.
Xã hội công nghiệp hiện đại, năng suất lao động cao, kéo dòng người nông dân trước kia( cả nam lẫn nữ) vào sinh sống trong đô thị và làm việc toàn thời gian cố định trong nhà máy; văn phòng, công xưởng..., nơi họ được trả lương cố định và áp lực về cái ăn hầu giảm xuống gần như biến mất. Ko cần phải huy động cả gia tộc chỉ để vận hành một tổ máy, không! Chỉ một người thay mặt cho gia đình là đủ. Nếu đã chẳng cần nhiều lao động chân tay đến vậy để tạo ra đủ thậm chí dư thừa lượng thực phẩm cần thiết thì lẽ tất yếu qua nhiều thế hệ làm công nhân, số lượng thành viên trung bình trong mỗi gia đình sẽ giảm xuống. Nhưng xã hội tư bản đòi hỏi mỗi thành viên nhiều hơn thế, anh làm ra tiền thì anh phải tiêu tiền, nhiều nhu câù nảy sinh hơn chỉ là ngày ba bữa. Ngoài anh ra anh còn phải đáp ứng nhu cầu của 4 miệng ăn đang chờ anh sau mỗi giờ tan sở. Vậy thì 3 vẫn tốt cho tất cả hơn là 4. Xã hội càng hiện đại, càng sinh ra nhiều nhu cầu, thì lại càng có nhiều loại công việc mới để làm hơn. Nay ko chỉ có mỗi nam giới là công nhân, mà cả phụ nữ cũng bình đẳng hơn, họ cũng đi làm, cũng tự sinh tồn được,ko bị phụ thuộc vào túi tiền của người đàn ông nữa thì tức là chẳng cần thiết phải cưới người đàn ông đó chỉ để có cái ăn. Ở loài người, tình yêu đến sau hai thứ là bản năng sinh sản và cảm thức ban đầu đối với vật chất.
Thuở xưa, nền kinh tế chủ yếu ở các xã hội là nông nghiệp, kỹ thuật canh tác lạc hậu-bị giới hạn bởi thời vụ nên đòi hỏi phải có sự quần cư và cần huy động số lượng lao động lớn. Trong một phạm vi đất nông nghiệp rộng lớn, nếu phân đơn vị canh tác theo hộ gia đình thì một gia đình nhiều lao động sẽ có lợi hơn một gia đình ít lao động hơn-qua đây, xét rõ đến sự tác động của số lượng nhân khẩu(tính cả người ngoài độ tuổi lao động nói chung) trong gia đình. Số lượng nhân khẩu nhìn chung bị giới hạn bởi lượng lương thực có đủ khả năng nuôi sống các thành viên hay không; tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ tử vong do y học kém phát triển, chết trận... Và thường là các tỷ lệ cao, cộng thêm yếu tố tuổi thọ tương đối thấp thì việc sinh nhiều con nhằm bù đắp cho lượng dân số tử vong lớn. Trở lại thực tế một chút, các bác nào 7x, 8x, 9x đời đầu, xuất thân nông thôn, đã từng kinh qua tuổi thơ nơi đồng ruộng chắc chắn sẽ hiểu làm nông cực nhọc đến mức nào, nếu một gia đình có 1 mẫu ruộng trong khi chỉ có 3 lao động chính, thì gần như không đủ khả năng canh tác nếu ko đổi công với các gia đình khác, và sẽ là tai hoạ nếu 1 trong 3 lao động kia ốm bệnh, đột ngột bị gọi nhập ngũ hoặc qua đời( trường hợp thường xuyên rơi vào trưởng nam của gia đình).
Ở đây, có một yếu tố lớn là văn hoá, phong tục. Mình chỉ đề cập đến xã hội nông thôn miền Bắc, nơi uy thế, địa vị cá nhân của nam giới thuở xưa được định đoạt một phần qua việc ông ta có bao nhiêu con, có con trai nối dõi hay không. Với người có địa vị chức tước và tương đối giàu có thì câu hỏi thêm là ông ta có bao nhiêu bà vợ nữa, mà cứ sự thường, nhiều vợ dứt khoát phải có nhiều con.
Xã hội công nghiệp hiện đại, năng suất lao động cao, kéo dòng người nông dân trước kia( cả nam lẫn nữ) vào sinh sống trong đô thị và làm việc toàn thời gian cố định trong nhà máy; văn phòng, công xưởng..., nơi họ được trả lương cố định và áp lực về cái ăn hầu giảm xuống gần như biến mất. Ko cần phải huy động cả gia tộc chỉ để vận hành một tổ máy, không! Chỉ một người thay mặt cho gia đình là đủ. Nếu đã chẳng cần nhiều lao động chân tay đến vậy để tạo ra đủ thậm chí dư thừa lượng thực phẩm cần thiết thì lẽ tất yếu qua nhiều thế hệ làm công nhân, số lượng thành viên trung bình trong mỗi gia đình sẽ giảm xuống. Nhưng xã hội tư bản đòi hỏi mỗi thành viên nhiều hơn thế, anh làm ra tiền thì anh phải tiêu tiền, nhiều nhu câù nảy sinh hơn chỉ là ngày ba bữa. Ngoài anh ra anh còn phải đáp ứng nhu cầu của 4 miệng ăn đang chờ anh sau mỗi giờ tan sở. Vậy thì 3 vẫn tốt cho tất cả hơn là 4. Xã hội càng hiện đại, càng sinh ra nhiều nhu cầu, thì lại càng có nhiều loại công việc mới để làm hơn. Nay ko chỉ có mỗi nam giới là công nhân, mà cả phụ nữ cũng bình đẳng hơn, họ cũng đi làm, cũng tự sinh tồn được,ko bị phụ thuộc vào túi tiền của người đàn ông nữa thì tức là chẳng cần thiết phải cưới người đàn ông đó chỉ để có cái ăn. Ở loài người, tình yêu đến sau hai thứ là bản năng sinh sản và cảm thức ban đầu đối với vật chất.
Last edited: