vì sao trong Nam gọi con đầu là anh hai/chị hai ?

Ta hay hỏi nhà có mấy ae mình nói 3, vậy con đứng thứ mấy, nói thứ 3, mà thứ 3 lại dễ hiểu lầm là út. Vai vế nước mình quả là nhức đầu.
 
có đánh tiến lên không , ra heo cơ là hiểu ha
59S2vtW.png
 
nghe kể hồi xưa người vào trong khai hoang toàn là đứa thứ 2 vì con cả là người hương khói 0 đi dc, nên to lắm chỉ là 2 thôi, mà nghe nhức đầu, đứa thứ 2 sinh ra tiếp gọi là 3, dkm, đau diều
 
Lần trước ngồi nhậu với ông bác già bên nhà vợ (Nghệ An), được ổng giải thích. Ngày trước, người đàng ngoài vào khai khẩn đàng trong (Nam Trung Bộ bây giờ). Thường trong gia đình lúc bấy giờ, anh cả phải ở lại thờ phụng, chăm lo việc trong họ tộc, nên những người đi vào trong khai khẩn chỉ có là con thứ (anh hai, anh ba, anh tư...). Về sau những người cao niên trong miền Nam vẫn giữ cách gọi cũ, tôn trọng những người anh cả ở miền ngoài, chỉ lấy tên thứ (hai, ba, tư) để gọi nhau, hoặc đặt cho con cháu.
 
Có 1 cách giải thích nữa là đặt thứ 2 để tránh bị Diêm Vương bắt. Tại ổng tra danh sách trong nhà lấy theo thứ tự từ lớn tới nhỏ (xét trong hàng con), nên đặt anh/chị Hai để ổng ko tìm ra đâu là thứ Nhất (cả) để bắt.
 
Thế tại sao ngày đầu tuần là thứ hai mà ko phải là thứ 1
Các thứ trong tuần bắt nguồn từ công giáo, và họ gọi ngày đầu tiên trong tuần là phiên chợ thứ 2, gọi tắt là thứ 2, trên google có đó
 
Cách hiểu thứ nhất có nguồn gốc từ nguyên tắc “tứ bất” (bốn không) của triều Nguyễn: “bất thiết Tể tướng, bất thủ Trạng nguyên, bất lập Hoàng hậu, bất phong Ðông cung”, nghĩa là các vua triều Nguyễn không đặt chức Tể tướng, trong thi cử không lấy đỗ Trạng nguyên, không lập Hoàng hậu và không phong Ðông cung Thái tử. Trong đó việc không lập Hoàng hậu và Ðông cung Thái tử vì cho rằng vua Gia Long vì tiếc thương người vợ là Tống Thị Lan và con trai cả là Nguyễn Phúc Cảnh (Hoàng tử Cảnh) nên dành vị trí này để tưởng nhớ người đã mất, từ đó trong dân gian không ai dám gọi con lớn là con cả.

Cách hiểu thứ hai cho rằng liên quan đến yếu tố kiêng kỵ, kỵ huý, do trùng với cách gọi “Hương Cả” là một chức vụ đứng đầu ở làng, xã thời Pháp thuộc. Năm 1904, để quản lý các địa phương ở Nam Kỳ, thực dân Pháp cho thành lập Hội đồng Hương chức (Hội đồng xã, còn gọi là Ban Hội tề) gồm 12 chức vụ: Hương Cả, Hương Sư, Hương Chủ, Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Giáo, Hương Quản, Hương Bộ, Hương Thân, Xã Trưởng, Hương Hào và Chánh Lục Bộ. Trong đó Hương Cả là chức vụ cao nhất. Người dân không dám gọi con trai lớn của mình là “thằng Cả” vì sợ phạm thượng.

Cách hiểu thứ ba từ tâm lý sợ cọp, có rất nhiều câu chuyện kể về việc những lưu dân thế hệ trước bị cọp bắt, cọp vồ ở khắp các vùng đất Nam Bộ như: Ðồng Nai, An Giang, Cà Mau… Những người con trưởng, con cả trong gia đình bị cọp ăn thịt dẫn đến nỗi sợ hãi trong dân gian, không dám gọi con trưởng là con cả vì sợ xui rủi; thậm chí gọi cọp là “Hương Cả cọp” (có thể còn hàm ý mỉa mai bọn Hương chức Hội tề hung dữ như cọp). Giả thuyết này không mấy thuyết phục vì đối tượng bị cọp vồ rất nhiều, không phân biệt con trưởng hay con thứ…

Trong quá trình nghiên cứu văn hoá dân gian ở miền Trung, người viết tìm được chứng cứ khác có thể xác định cách gọi “anh Hai” đã có trước thời Khởi nghĩa Tây Sơn (năm 1771), lúc đó Nguyễn Nhạc (là anh cả trong ba anh em: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) đã được Nhân dân địa phương gọi là “anh Hai Trầu”. Trong cuốn “Lễ hội Việt Nam”, bài Lễ hội Quang Trung, các tác giả Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý cũng xác định: “Tại làng Kiên Mỹ còn di tích Bến Trầu - nơi tương truyền ngày xưa Nguyễn Nhạc thường đưa trầu từ phía thượng nguồn về bán ở vùng An Thái, An Nhơn… cho nên Nguyễn Nhạc còn có tên là anh Hai Trầu”.

Như vậy các giả thuyết liên quan đến triều Nguyễn (từ năm 1802) hay thời Pháp thuộc (từ năm 1858) là không thuyết phục, vì cách gọi “anh Hai” thay cho “anh Cả” đã xuất hiện từ trước năm 1771.

Ngược dòng lịch sử, trở lại thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng cùng với binh sĩ, tuỳ tùng và Nhân dân ở một số địa phương miền Bắc vào khai phá vùng đất phương Nam, có thể giả thuyết cách gọi “anh Hai” xuất phát từ thời kỳ này. Sử sách ghi rằng trong đoàn quân Nam tiến lúc đó, hầu như không có ai là “anh Cả”, vì xác định công cuộc “mang gươm đi mở cõi” là “sinh ly, tử biệt” nên các gia đình phải để người con trưởng ở lại để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc mộ phần tổ tiên; những người ra đi đều là con thứ, kể cả Nguyễn Hoàng cũng là con trai thứ.

Về sự kiện này, sách “Ðại Việt sử ký toàn thư”, quyển XVI, có chép: “Tháng 10 (Mậu Ngọ, tức năm 1558), Thái sư Trịnh Kiểm vào chầu, dâng biểu xin sai con thứ của Chiêu Huân Tĩnh công là Ðoan quận công Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn thủ xứ Thuận Hoá để phòng giặc phía đông cùng với Trấn quận công ở Quảng Nam cứu viện cho nhau. Mọi việc của xứ này, không cứ lớn hay nhỏ, và các ngạch thuế đều giao cả cho, hằng năm đến kỳ hạn thì thu nộp”.

Sách “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim (1919) cũng ghi: “Ông Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng cũng làm tướng lập được nhiều công. Người anh là Nguyễn Uông được phong làm Lang quận công, người em là Nguyễn Hoàng được phong là Thái uý Ðoan quận công. Nhưng vì Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn tranh mất quyền mình, bèn kiếm chuyện mà giết Nguyễn Uông đi. Còn Nguyễn Hoàng cũng sợ Trịnh Kiểm có ý ám hại, chưa biết làm thế nào mới ra Hải Dương hỏi ông Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông ấy bảo rằng “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (nghĩa là một dãy Hoành Sơn (chỗ đèo Ngang, Quảng Bình) kia có thể yên thân được muôn đời).

Nguyễn Hoàng mới nói với chị là bà Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phía Nam. Năm Mậu Ngọ (1558) đời vua Anh Tông, Trịnh Kiểm mới tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá. Bấy giờ những người họ hàng ở huyện Tống Sơn cùng những quân lính ở đất Thanh, Nghệ nhiều người đưa cả vợ con theo đi…”.

Nhiều thế hệ cư dân miền Bắc vào Nam khai phá theo chính sách của Nguyễn Hoàng đã ý thức được công cuộc tha hương sẽ khó có ngày quay trở lại. Vì vậy, những người dân Nam tiến này đều là những “anh Hai”, “anh Ba”… Vì cuộc mưu sinh trên vùng đất mới, vì muốn thoát khỏi sự trói buộc của luật lệ phong kiến khắt khe, họ phải ra đi nhưng trong lòng vẫn canh cánh nhớ về quê cha đất tổ.

Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ trong bài thơ “Nhớ Bắc” (viết năm 1940) có những câu thơ diễn tả tâm trạng này:

“Ai đi về Bắc ta theo với

Thăm lại non sông giống Lạc - Hồng

Từ thuở mang gươm đi mở cõi

Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”


Ðể tưởng nhớ quê hương, các thế hệ dân cư miền Nam đã giành vị trí “anh Cả” cho những người còn lại ở đất Bắc, nên những người con trưởng sau này được gọi là “anh Hai”, “chị Hai”, lâu dần thành thói quen, thành phong tục, thành truyền thống đạo lý của dân tộc.
 
đợt nhớ đọc đâu đó, dân trong Nam thì chủ yếu đi làm kinh tế mới, Bắc 54 nên toàn con thứ trong gia đình ( con cả thì ở lại ngoài Bắc hương khói các cụ ) nên lớn nhất chỉ có thể là anh hai chị hai ( vì ông cả ở ngoài Bắc ). Lâu dần thành quen, sau này gọi anh hai chị hai là đứa lớn nhất luôn.
Đính chính là từ ngày xưa hồi Nguyễn Hoàng vào Nam khai khẩn, các gia đình đều giữ lại con cả, chỉ cho con trai thứ 2 theo thôi, em nghe mẹ nói thế :beat_brick::beat_brick::beat_brick::beat_brick::beat_brick::beat_brick:
 
đợt nhớ đọc đâu đó, dân trong Nam thì chủ yếu đi làm kinh tế mới, Bắc 54 nên toàn con thứ trong gia đình ( con cả thì ở lại ngoài Bắc hương khói các cụ ) nên lớn nhất chỉ có thể là anh hai chị hai ( vì ông cả ở ngoài Bắc ). Lâu dần thành quen, sau này gọi anh hai chị hai là đứa lớn nhất luôn.
Htrc e đi coi bói, ông thầy bói cũng nói hệt thím. Chắc đúng thiệt
 
Back
Top