Thấy bài này khá là hay :
DIỆT TRỪ NHỮNG LỖI LẦM VÀ NHẬN RA SỰ THỰC HÀNH THIỀN ĐỊNH
DAKPI TASHI NAMGYAL – SOI RÕ TRẠNG THÁI TỰ NHIÊN
Điều này có hai phần:
Diễn tả những lỗi lầm và thiền định lầm
Giải thích thực hành thiền định không khuyết điểm
Diễn tả những lỗi lầm và thiền định lầm
Đã nổi tiếng từ lâu như mặt trời và mặt trăng rằng trong truyền thống Dakpo Kagyu sự thực hành thiền định là Đại Ấn. Bề ngoài, có một đa dạng những quan điểm về Đại Ấn do những cách hiểu cá nhân. Tôi không bác bỏ những người khác. Tuy nhiên tôi sẽ giải thích một chút để khuyến khích cái hiểu nơi những người nương dựa vào tôi.
Đặc biệt, khi người ta qua nhấn mạnh vào sự bình lặng tâm thức, tâm thức bình lặng của họ trở nên giống như một cái hồ đóng băng trên mặt, đến độ tất cả những tri giác thô và tế của sáu giác quan dừng lại. Hay dù nếu không dừng, chúng cũng trở nên không trong sáng và mơ hồ. Tin cái này là trạng thái thiền định, điều trước là một lỗi nặng, trong khi điều sau là khuyết điểm được biết như trạng thái trì trệ.
Cũng có một số người xem trạng thái thiền định là ở yên trong một cách không có tâm, không ghi nhận cái gì có hay không. Cái này là mất mình trong sự quên, không biết cái gì đang xảy ra.
Một số người cho thiền định là một trạng thái trống rỗng của tâm trong đó tư tưởng trước đã dứt và tư tưởng sau chưa sanh.
Những cách ấy không được vipashyana bao bọc và như vậy là những lỗi lầm trầm trọng. Dù khi bao bọc những trạng thái ấy với vipashyana, những người ấy cảm thấy họ phải giữ gìn không chuyển động khỏi sự duy trì Đại Ấn. Như vậy, nó trở thành một đói kém thiền định.
Hơn nữa, một số định dạng trạng thái thiền định như chỉ ở trong một trạng thái đầy lạc phúc. Nếu thế, họ đã không bao bọc nó với vipashyana. Hay dù có vipashyana, họ cảm thấy họ phải ngăn đóng mọi kinh nghiệm tri giác. Dù khi không ngăn đóng, xem những tri giác là đối nghịch thì vẫn chưa đúng.
Nếu một trạng thái hoàn toàn trống không, thoát khỏi giữ gìn tư tưởng nào của ba thời trong tâm, được xem là trạng thái thiền định, điều đó cũng không có vipashyana bao bọc và có lỗi lầm trọng là ngăn đóng kinh nghiệm tri giác. Dù khi được bao bọc, vẫn còn chưa đúng bởi vì có một không thích đối với kinh nghiệm và tri giác.
Hay, nếu thiền định được xem như thường trực giữ gìn quan điểm khái niệm rằng mọi tri giác – bất cứ cái gì xuất hiện và được kinh nghiệm – là không có bản chất, sự bám vào tính không cụ thể này là một lỗi trầm trọng.
Hơn nữa, nếu thiền định được xem như cố ngăn cấm một cách không chánh niệm đối với chấp nhận hay chối bỏ toàn bộ kinh nghiệm giác quan, đó là bình lặng thản nhiên và chỉ là một trạng thái bình thường.
Tôi không thấy cái nào trong những điều ấy là tu tập Đại Ấn, nhưng chúng hiện hữu như những cách khác nhau cho những cá nhân tạo nghiệp.
Lại nữa, một trạng thái của tâm sáng tỏ và vô niệm có thể đặc biệt xem là thiền định. Tánh giác sáng tỏ và không thể diễn tả, sau một tư tưởng đã lặng xuống, quả là tu tập thiền định. Tuy nhiên, nếu bạn cảm thấy bạn phải vô niệm, đó vẫn còn chưa hoàn hảo.
Tương tự, khi một tư tưởng khởi sanh thì cũng không hoàn hảo nếu cảm thấy rằng bạn phải cắt đứt nó và rồi ở trong sáng tỏ và vô niệm.
Cả hai cái ấy là những trường hợp chưa xác minh được tư tưởng chuyển động và tri giác.
Hơn nữa, một trạng thái tỉnh thức rộng rãi của tâm tỏ biết và trống không sau khi bạn chánh niệm mạnh mẽ, có thể xem là thiền định. Dù cái này thật ra là thực hành thiền định, nó vẫn chưa hoàn hảo theo nghĩa không thích một sự hiện diện mở rộng, tự do và tự nhiên của tâm, và thay vì thế, thích hơn sự tập chú kích liệt một cách không thư giãn.
Thế nên, cực kỳ quan trọng là không lầm về những con đường thiếu sót của thực hành thiền định.
Những cách tu tập không hoàn hảo vẫn có khả năng để tiến bộ, nhưng chúng bất tiện để duy trì và như vậy có nguy cơ làm mệt mỏi việc thực hành. Qua nhiều cách khác nhau của tập chú và thư giãn trong mọi trường hợp – tri giác hay trống không, suy nghĩ hay bình lặng – bạn phải nghiêm tầm thấu đáo và nhận biết, để tìm thấy một cách tiện dụng và thoải mái để duy trì nó.
Giải thích thực hành thiền định không khuyết điểm
Thứ hai, thực hành thiền định được biết là tâm bình thường không xao lãng. Tâm bình thường chỉ nghĩa là trạng thái tự nhiên của tâm bạn. Khi bạn cố gắng sửa chữa nó bằng phê phán, chấp nhận hay bác bỏ, nó sẽ không còn là tâm bình thường của bạn.
Thế nên, hãy duy trì không xao lãng trạng thái tự nhiên của tâm bạn với một sự hiện diện tỏ biết tự nhiên, bất kể nó hay cái gì được tri giác hay cảm thấy thế nào. Điều đó được gọi cách đơn giản là ‘thiền định’. Ngoài điều này, không có một chút nhỏ như đầu một sợi tóc để điều chỉnh bằng cách thiền định.
Giải thích theo cách này: “Khi không có thậm chí một nguyên tử để trau dồi bằng thiền định, bạn không nên xao lãng dù một khoảnh khắc.” Nói cách khác, tâm bình thường không xao lãng nghĩa là giữ cái cách tâm bạn là một cách tự nhiên, không xao lãng.
Như vậy, chừng nào hiện diện chánh niệm tỉnh giác tự nhiên của bạn không đi lang thang, nó vẫn là tu tập thiền định, dù trạng thái tâm thức của bạn hoàn toàn trống không, ở trong phúc lạc thanh tĩnh, hay dòng những tư tưởng chảy mạnh hay những tri giác nhiều kiểu xuất hiện sống động. Bởi thế bạn không cần ấp ủ những nghi ngờ về những phát biểu này về trạng thái tự nhiên. Khi duy trì một cảm thức thong dong tự nhiên. Khi duy trì một cảm thức thong dong tự nhiên, không có điểm nào để cố gắng dừng lại hay ngăn chặn dòng tư tưởng hay tri giác cho sự giữ gìn vô niệm.
Lý do là thế này: giống y như trước, khi bạn xóa sạch những không chắc chắn và trong khi giáo huấn chỉ thắng, những thực thể khác nhau như tinh túy tâm, tư tưởng, kinh nghiệm tri giác vân vân không hiện hữu. Đúng hơn, chúng là những biểu lộ không giới hạn của tâm đơn nhất này, cũng như bản thân đại dương là cái được thấy như những làn sóng. Bởi thế, dòng tự nhiên này của tâm không khác biệt trong phẩm tính, bất kể nó xuất hiện như thế nào.
Như vậy, bạn cần duy trì hiện diện của tâm trong tĩnh lặng khi bình lặng, trong suy nghĩ khi những tư tưởng xảy ra và trong tri giác khi những tri giác xảy ra. Chớ cố gắng nghĩ khi tĩnh lặng hay ngăn chặn một tư tưởng khi nó xảy ra. Bất kể bạn ở trong trạng thái nào – trong sáng tỏ rõ, hoàn toàn trống không, tràn đầy lạc phúc hay hoàn toàn nghỉ ngơi – chỉ ở yên không xao lãng. Bạn không cần cải tạo hay sửa sang cái gì cả.
Tóm lại, mọi sự thiền định khi bạn có hiện diện tỏ biết tự nhiên của tâm và không có cái gì là thiền định khi bạn xao lãng. Thế nên, hãy hiểu sự quan trọng lớn lao của duy trì chánh niệm này.
Ở một điểm nào, khi chánh niệm và tâm bạn không còn là những thực thể khác nhau, mọi sự chuyển thành bản tánh của hiện diện chánh niệm và nó là ‘êm ả’ từ lúc đó trở đi.
Bây giờ bạn có thể hỏi, “Tốt lắm, đơn giản bao bọc bất cứ cái gì được kinh nghiệm với chánh niệm ngay từ đầu mà không phải theo những bước thứ lớp của hướng dẫn không đủ sao?” Vâng, là đủ đối với những người khác, trừ phi họ theo những bước thứ lớp của hướng dẫn để nghiên tầm và xóa sạch những không chắc chắn về những tri giác và tâm, họ sẽ không có được chắc chắn đi cùng kinh nghiệm thấy tinh túy của chúng. Người ta có thể có những loại chánh niệm khác, nhưng những cái đó sẽ không đủ trừ phi nó là sự hiện diện chánh niệm tỏ biết tự nhiên.
Do đó, điểm then chốt ở đây dựa vào những lời và nghĩa của tâm bình thường và tâm tự nhiên không giả tạo. Mọi kinh, tantra và giáo lý của những thành tựu giả Ấn Độ và Tây Tạng đều diễn bày cái thấy chân thật đưa đến điểm này.