Trước hết, dịch bệnh Covid-19 đã đáp ứng đủ 3 điều kiện cơ bản theo pháp luật để được coi là sự kiện bất khả kháng: (i) xảy ra một cách khách quan (không do các bên tạo ra hoặc phát sinh do lỗi chủ quan của các bên); (ii) không thể lường trước được (nằm ngoài dự đoán của các bên trong trường hợp hợp đồng được giao kết trước thời điểm Covid-19) và (iii) không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép (việc khắc phục Covid-19 nằm ngoài khả năng của các chủ thể theo hợp đồng). Ngoài ra, việc xác định liệu Covid-19 có dẫn đến hệ quả bên bị ảnh hưởng không thực hiện được đúng nghĩa vụ quy định trong hợp đồng mà cụ thể là nghĩa vụ thanh toán hay không cần được đặt trong bối cảnh cụ thể của từng loại hợp đồng.
Trong trường hợp đối với hợp đồng cho thuê nhà ở kinh doanh, khi Chính phủ ra Chỉ thị tạm ngừng hoạt động đối với các cơ sở kinh doanh trên địa bàn nhiều tỉnh (trừ các hình thức kinh doanh các mặt hàng thiết yếu) đã gây ra khó khăn cho các chủ cửa hàng, họ phải đóng cửa, công việc kinh doanh bị tạm dừng, không có thu nhập, do đó họ không còn đủ khả năng để thanh toán tiền nhà hàng tháng. Vì vậy, dịch bệnh Covid-19 chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc các chủ cửa hàng không thể thực hiện nghĩa vụ, có thể coi đây là một sự kiện bất khả kháng giúp người thuê nhà được miễn trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ thanh toán của mình theo khoản 2 Điều 351 Bộ Luật Dân Sự 2015.
Tuy nhiên, việc miễn trừ này chỉ áp dụng đối với trường hợp Hợp đồng trước đó giữa các bên không có quy định về sự kiện bất khả kháng, còn đối với trường hợp khi giao kết, các bên đã thỏa thuận loại trừ việc áp dụng các quy định về sự kiện bất khả kháng theo pháp luật thì bên thuê sẽ vẫn hoàn toàn phải chịu trách nhiệm vì bất kỳ lý do nào, kể cả trường hợp bất khả kháng theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015.