Làm gì có, chính vì khoản 3 Điều 51 luật HNGĐ nó không rõ ràng, có nhiều quan điểm khi xét xử nên Tòa tối cao mới phải ra nghị quyết hướng dẫn, hướng dẫn ở đây là hướng dẫn cho các Tòa cấp dưới khi xét xử.
Nguyên văn khoản 3 nó như thế này:
"3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi."
Khi xét xử, sẽ có các quan điểm sau:
1. Vợ đang có thai: là có thai với ai? Với chồng hay với người khác? Nếu có thai với người khác thì ly hôn được không?
2. Sinh con: là sinh con với ai, với chồng hay với người khác? Thêm nữa là sinh con thì tính thời gian như thế nào? Có bị trùng với cái "đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi" hay không?
3. Nuôi con dưới 12 tháng tuổi: là nuôi con ai? Con đẻ hay con nuôi?
Do đó, Tòa tối cao mới phải ra cái hướng dẫn, cụ thể là:
1. Giải thích khái niệm:
- Đang có thai là gì?
“Đang có thai” là khoảng thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.
- Sinh con là gì?
Là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Vợ đã sinh con nhưng không nuôi con trong khoảng thời gian từ khi sinh con đến khi con dưới 12 tháng tuổi;
b) Vợ đã sinh con nhưng con chết trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh con;
c) Vợ có thai từ 22 tuần tuổi trở lên mà phải đình chỉ thai nghén.
=> Chỗ này mình giải thích thêm cho anh em hiểu:
a. Vợ đã sinh con nhưng không nuôi con: Nghĩa là vợ đẻ xong bỏ con, không nuôi nấng chăm sóc. Nó khác với trường hợp vợ đẻ xong và nuôi con sẽ được coi là đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Nên sẽ không trùng nhau.
2. Quay lại vụ chồng không được yêu cầu ly hôn:
Trường hợp 1:
"3. Chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này hoặc ngày đình chỉ thai nghén hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này."
Vì sao vậy?
a. Vì vợ đẻ xong không nuôi con, ông lại đòi ly hôn thì đứa con đó ai chăm sóc?
Còn lý do vì sao lại là 12 tháng thì mình không biết được, có lẽ nó liên quan đến sức khỏe của đứa bé hoặc là thời gian hợp lý để bà mẹ ổn định tâm lý, sức khỏe... bla bla để nhận lại con.
Hoặc cũng là thời gian hợp lý để ông chồng chứng minh đó không phải là con mình.
b, c. Hai trường hợp này thì đơn giản là để bảo vệ phụ nữ thôi.
Tiếp:
Trường hợp số 2:
"4. Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai."
Đây là cái gây ra tranh cãi. Nhưng anh em hiểu đơn giản nó là cái mở rộng của trường hợp 1 thôi. Nghĩa là theo cái khoản 3 bên trên.
Nghĩa là, chỉ khi rơi vào trường hợp của khoản 3, thì anh mới dính phải cái gọi là "không có quyền ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai".
Những trường hợp của khoản 3 bao gồm những cái nào:
- Mang thai: Cái này dễ hiểu rồi, mang thai thì khó xác định được ADN, khó chứng minh được có phải con mình hay không, nên là phải chịu.
- Sinh con: bao gồm 3 trường hợp bên trên mình đã liệt kê, và nó không bao gồm trường hợp: Vợ đẻ con, vẫn nuôi con và có bằng chứng chứng minh được đó không phải con mình.
Thế nên là nếu đẻ ra, vợ nuôi con, và anh chứng minh được nó không phải con mình thì cứ đệ đơn ly hôn.
Trường hợp cuối:
"5. Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt con đẻ, con nuôi."
Cái này cũng dễ hiểu, con đẻ thì không được ly hôn khi vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi là đúng rồi, còn con nuôi thì cứ áp luật nuôi con nuôi vào. Lưu ý là con "tu hú" không phải là "con nuôi" theo luật nuôi con nuôi, nên chứng minh được thì cứ đệ đơn ly hôn thôi.