Con rối người
X
Ông Tuyên mồm uống tai nghe mà lòng dạ cứ vỡ ra. Cái này chẳng phải Tà thần bất cảm chánh mà cụ Phao lô Của (Paulus Của tên tây của cụ Huình Tịnh Của) hay nhắc tới sao? Đọc lắm nghe nhiều mà giờ ông Tuyên mới thấm. Thần tà chẳng cảm, chẳng phạm chánh thần. Hễ ăn ở chính trực, có cái mạnh mẽ trong mình thì chẳng sợ nhuốm lấy tà khí, tà khí chẳng khuấy mình đặng. Thần mọc thì quỉ lặn. Bà Nhạn vợ ông chuyện đã vậy rồi, âu cũng là cái liễn. Đốt đuốc tìm giàu, giàu chẳng thấy, cầm gươm chém khó, khó theo sau. Số mạng định thế, có trật ai bao giờ. Cứ phải nắng lửa mưa dầu, ngoe ngoảy như cua gãy càng vừa khó coi vừa nhọc xác làm gì. Đời xưa trả báo mà chầy, đời nay trả báo một giây nhãn tiền. Đem quỉ về phá nhà chay báo ứng chước ngay đầu đen máu đỏ. Sao ông chẳng nghĩ ra nhỉ? Ở cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa. Cây đa có thần dựa vào mới linh, thần có cây đa mới có chỗ dựa. Thế phải tương y tương ỷ cùng nhau. Sao mình giờ không y dạng họa hồ lô mà bắt chước, đặt tờ tiền thề cắt lối ốc mượn hồn, bỏ thói xác còn người mất đầu ngất ngơ thì Lý cũng hết chỗ tựa. Bà Nhạn điên thì ông Tuyên chịu. Là ra thế. Cái dư vị ngọt ngào của trà sau khi uống xong còn lưu lại trong khoang miệng nào có khác gì cái cảm giác êm đềm lâng lâng, say ngà ngà sau khi uống rượu còn tồn lại nơi ông lúc này. Nhưng lòng dạ thỏa quá rồi say khướt đèn cù. Ông Tuyên ngật ngưỡng trong cái bóng dáng xiêu vẹo, bước thấp bước cao như sắp đổ đưa anh bộ đội Chỉnh ra cổng, miệng hẫn nhắc nhỉ:
-Đúng là chơi với người tốt như vào hàng hoa. Khi đi ra hương thơm còn vương vấn. Chơi với kẻ xấu như vào hàng cá. Quen tanh rồi, chẳng biết mình tanh.
Bữa đặt tờ bùa ông Duyệt tới giờ, quái trong nhà tiệt hẳn. Bà Nhạn thi thoảng vẫn lên cơn nhưng không còn đòi đánh đòi giết ai nữa. Bị nhập nhiều khiến thần kinh hư hại, ma quỷ mất đi như để lại một khoảng trống vô hình trong trí não bà, làm cho chậm chạp, lờ đờ, không thật người. Giờ đã thành bệnh lý thần kinh chứ chẳng ai bảo bị quở, bị hành nữa. Qua một giấc dài như chết lâm sàng đến ghê người, ông Tuyên mới nhìn ra trong tờ tiền bộ tướng nhà binh là tinh anh phù mộng của thuật đồng hoàn. Sang nhà bà Đỗ thì anh Chỉnh đã đi rồi. Mọi sự cứ như xem ci nê. Phim hết đèn mới sáng. Khi phụ đề đã đứng im tại dòng xuất bản và phát hành, đảo mắt tìm người thì ai cũng đã vội. Ông Tuyên thấy khó chịu như đứa trẻ không đủ năng lực mà bị đúp lại. Như phải đứng mắt nhìn ô đèn giao thông nhấp nháy giữa ngã tư tìm nơi xoay chuyển vận mệnh cuộc đời. Số phận không phải là do trò uyn đơ toa quyết định. Nhưng cũng không thể tùy hứng như thế. Ông như đi qua ánh đèn bão dấu chân người lính đã từng qua, như hóng phải cơn gió Lào khô rát từng phả vào mặt chiến sĩ, đậm nét từng cái ôm đồng chí. Nhưng cũng lại như lần đầu tỉnh giấc với một trái tim trống rỗng, hai bàn tay để không. Phải chăng là cùng nhìn thấy một khung cảnh giống nhau. Có chăng chỉ là sai khác cảm xúc trong thời không sai lệch.
1819
Trên con thuyền hai buồm đang thong dong ngoài biển, anh thông dịch người Việt trẻ người phảng phất hương long não, nằm úp mặt sõng soài trên giường nói với người đồng hương đang lau dọn:
-Anh Tuyên này! Tôi vẫn không tại sao Giôn Trắng lại đặt khá nhiều kì vọng vào chuyến đi này. Vẻ mặt ông ta vẫn hớn hở như khi thả neo và nhặt vài người chúng ta lên tàu. (Giôn Trắng John White trung úy hải quân Hoa Kỳ thuyền trưởng tàu hai buồm Franklin)
-Chẳng lẽ ông ta lại không được nghe hay đọc gì về chuyến hải hành tới Cochin-china Nam Kỳ năm 1803 của thương thuyền Fame hay sao. Những dòng chữ viết tay của thuyền trưởng rất rõ mà.
Anh Tuyên ậm ừ như mọi khi:
-Nào tôi có biết gì về chuyện sách vở.
Anh thông dịch thích thú giải thích những gì mình đã đọc được. Anh hay nằm nghĩ vẩn vơ rồi lý sự với anh Tuyên, dù điều này cũng chẳng nghĩa lý gì nhưng anh Tuyên có vẻ thích nghe và không lấy làm khó chịu khi bị dạy đời như những người khác:
-Năm 1802, Tổ Hợp Crowninshields một trong những gia đình hải vận chính yếu vùng New England, đã gửi một thương thuyền sang Nam Kỳ Cochinchina, để trắc nghiệm một nguồn cung cấp đường và cà phê mới. Tổ Hợp Crowninshields có vẻ tin tưởng rằng nếu chuyến du hành sang Nam Kỳ thất bại, chiếc thuyền có thể cất mua được một chuyến hàng đáng giá tại Borneo hay một nơi nào khác trên lộ trình và chuyến du hành sẽ không đến nỗi vô ích. Bất kể ra sao, đây là chiếc thuyền đầu tiên của Hoa kỳ trong lịch sử sang thăm viếng Việt Nam và vị thuyền trưởng của tàu sẽ là người Hoa Kỳ đầu tiên đặt chân lên vùng đất đó. Chiếc thuyền được khoa trương ầm ĩ như đúng tính cách của người Mỹ đó là thương thuyền Fame cùng vị thuyền trưởng Jeremiah Briggs. Cũng như chúng ta bây giờ, tàu vào Mũi St. James Vũng Tàu sau khi thấy Côn Đảo. Rồi tiếp tục vào hạ neo tại vịnh Turon Đà Nẵng. Thuyền trưởng Briggs lên thăm một trong hai chiếc thuyền đang ở trong vịnh và khám phá ra rằng hai chiếc tàu này thuộc quyền của King of Cochinchina Quốc Vương Nam Kỳ, được điều khiển bởi các người Pháp. Ông Briggs đã tới Đà Nẵng để gặp viên chức điều khiển tàu này rồi trở về lại thuyền Fame ngày sau đó. Vị thuyền trưởng thâm niên nhất của Pháp mà ông Briggs tiếp xúc đã cố vấn ông Briggs đi đến Cowe Huế tức đến kinh đô, để vào hầu yết kiến nhà vua, tìm hiểu là liệu có bất kỳ khả năng mậu dịch nào hay không. Ông Briggs đi Huế bằng một chiếc thuyền nhỏ cùng với năm người và một hướng dẫn viên Bồ Đào Nha đến từ Ma Cao và hiện sống tại địa phương như tôi. Họ qua đêm tại Fai-foo Hội An một địa điểm có một số hoạt động mậu dịch. Nhưng ông Briggs đã phải thốt lên rằng: “Không có một dấu hiệu nào về công nghiệp tại đây, cư dân là những người lười biếng nhất mà tôi chưa từng trông thấy bao giờ, họ sống chính yếu nhờ cá mà họ đánh bắt được rất nhiều, các túp lều của họ nói chung nhỏ bé, và hoàn toàn để trống toang hoác, để thích nghi với khí hậu vì trời nóng vô cùng.” Khi ngược dòng sông Hai-Foo Thu Bồn về Huế, ông nhận thấy có thể hải hành bằng các thuyền buồm và ngay cả tàu nhỏ. Khi ông Briggs tới Huế, ông lên thăm một chiến thuyền thả neo ở đó và tìm gặp vị chỉ huy người Pháp. Ông Briggs đã ở trên chiến thuyền ba ngày với vị chỉ huy người Pháp và được cho hay rằng ông ta chưa hề nghe thấy sự việc như là việc cất mua đường mía từ bờ biển này và rằng ông ta không nghĩ điều đó có thể xảy ra. Tuy nhiên, vị chỉ huy người Pháp vẫn giúp Briggs tìm kiếm sự chấp thuận từ Nhà Vua cho việc mua bán ở bất kỳ hải cảng nào dọc bờ biển. Giấy phép mậu dịch của Nhà Vua chỉ cho phép giao dịch tại đây trong vòng khoảng 6 tháng với nhiều điều khoản không thuận lợi. Trong 10 ngày sau đó, thương thuyền Fame đã đi thăm dò dọc bờ biển, nhưng hiển nhiên là không hề đặt chân lại trên đất liền bởi gặp phải các triều sóng to. Sau đó đổi hướng sang Manila. Kết thúc một chuyến đi thất bại.
Rồi chàng trai thông dịch trẻ lại khua khua cánh tay quá đầu trong tư thế nằm sấp nhìn khá buồn cười mà nói tiếp:
-Giôn Trắng cũng không đưa ra một manh mối nào về lý do tại sao ông đảm nhận một chuyến hải hành sang Nam Kỳ. Nhiệm vụ của ông rõ ràng có tính chất thương mại, tìm kiếm và mang về một chuyến hàng hóa sinh lợi nhuận nhưng ông ta cũng không giải thích tại sao một chiếc thuyền hai buồm dưới sự chỉ huy của một sĩ quan hải quân Hoa Kỳ lại được giao phó một nhiệm vụ như thế hay ai là người đã tài trợ cho phái bộ. Giôn Trắng cũng không cho thấy đâu là quyền lợi nói chung của Hoa Kỳ vào lúc đó tại chính vùng Nam Kỳ đang bị gia tăng ảnh hưởng bởi Pháp hay ngay cả về sự hiểu biết bao nhiêu của nền cộng hòa non trẻ đối với phần đất cá biệt đó của thế giới.
Anh Tuyên với chất giọng thật thà đáp:
-Tôi nghe nói đây không phải lần đầu ông John có ý định muốn vào Sài gòn. Trước đây thuyền Franklin đã di chuyển đến một ngôi làng tại Canjeo Cần Giờ, cách Vũng Tàu khoảng 7 dặm về phía tây, và chờ đợi giấy phép để ngược dòng lên Sài gòn. Nhưng giấy phép đã không bao giờ đến. Sau vài ngày thảo luận nhiều bực tức với quan lại địa phương, ông John đã kết luận rằng các giới chức địa phương không có thẩm quyền trong việc ông tiến vào Sài gòn. Các quan lại địa phương tại Cần Giờ đã bảo đảm với ông John rằng nếu ông ta trở lại từ Huế với giấy tờ thích hợp từ nhà vua, ông ta có thể tiến lên Sài gòn. Vì thế, tàu đã nhổ neo để đi đến Huế. Nó tức thời được thăm viếng bởi đám quan lại địa phương và họ thông báo rằng nhà vua hiện không có mặt ở Huế vì đang ra ngoài Đông Kinh Bắc Kỳ. Rằng xứ sở đang hồi phục từ nhiều cuộc chiến tranh tàn phá và rằng sản lượng ít ỏi đường mía và tơ sống có trong nước dành cho các giao dịch thương mại đã bị hứa bán cho hai chiếc thuyền của Pháp trước đây kết ước cung cấp cho nhà vua các vật dụng kỳ lạ cùng với vũ khí và quân phục cho binh lính của ngài.
Anh thông dịch lạc quan:
-Có sao. Cuối cùng Franklin và Marmion những hai con tàu của Giôn Trắng cũng đã được cập bến Sài gòn.
Anh Tuyên ngán ngẩm:
Cũng chỉ là nối tiếp thêm bốn tháng nghi lễ hầu như chằng có kết quả gì cả và việc mặc cả giằng co với các giới chức Nam Kỳ thôi. John không hề mang theo quốc thư của Chính phủ Hoa Kỳ hay trung gian mối giới. Sẽ chẳng có cuộc đàm phán chính thức nào về quan hệ buôn bán giữa hai nước. John đến Việt Nam để khảo sát kinh tế và tìm cách khởi động mua bán chứ không phải du lịch hay đi khảo sát dân tộc học. John sẽ bị đám quan lại địa phương bòn rút đến đồng xu cuối cùng và tức giận bỏ đi như những chiếc thuyền buôn khác.
Buổi sáng hôm ấy, ngày 7.10.1819, nhật ký hải trình của John White ghi có có mưa nhẹ. Hai con tàu buồm to lớn mang lá cờ lạ lẫm sao trắng và vạch đỏ, từ Cần Giờ bắt đầu đi vào sông Bình Giang (tên xưa của sông Sài Gòn). Cả hai được phép cập bến tại bán đảo Thủ Thiêm, đối diện dãy phố Bến Nghé của Thành Gia Định tên chính thức của Sài Gòn. Khung cảnh hai bên bờ sông thanh bình. Thuyền buồm và ghe chèo đi lại tấp nập. Những người dân địa phương đội nón lá xoay tròn, có chóp nhọn xinh xắn. Dọc bờ sông là những căn nhà lá hiền hòa. Trên bờ Bến Nghé có một tòa nhà mái ngói xòe rộng. Điểm xuyết chung quanh thành phố là những cây dừa cao, ruộng đồng và chân trời bát ngát. Sau 48 giờ chờ đợi, ngày 9.10, một ngày nắng ráo, đoàn khách Ma Ly Căn (phiên âm Hán Việt từ American trong sử nhà Nguyễn) được mời xuống thuyền nhỏ sang sông, bước qua thành phố lớn. Thuyền trưởng John 37 tuổi, đi cùng các sĩ quan trong bộ quân phục lạ lẫm và oai vệ. Phiên dịch của đoàn chính là chàng trai người Việt trẻ biết nói tiếng Bồ Đào Nha. Các quan nhà Nguyễn lúc đó không có người giao dịch bằng tiếng Anh. Xem ra, người Bồ, người Hà Lan và người Pháp là người phương Tây đến Việt Nam thời ấy nhiều nhất. 9 giờ sáng hôm đó, trong ánh nắng thiêu đốt, vẫn có đông đảo người dân Gia Định từ hàng trăm ghe thuyền và các phố phường dọc bờ sông, tụ tập ngắm nhìn đoàn khách da trắng. Mùi cá khô và mùi nước mắm từ các ghe thuyền hóm hỉnh vẫy chào (salute) đoàn khách. Người dân reo hò: don-ong-olan, olan ben tai! Phải chăng là “đàn ông Ô-lăng” và “Ô-lăng bên Tây”? Chữ Ô-lăng là phiên âm của Holland – Hà Lan, đất nước đã buôn bán với cả Đàng Trong và Đàng Ngoài từ thế kỷ XVII. Một số người dân còn hồn nhiên sờ vào quần áo hay chạm tay vào trang phục mới lạ của khách. Từ bến tàu, đoàn bắt đầu đi bộ qua một ngôi chợ bề thế (great bazar) đầy ắp nông sản và các loại hàng hóa. Tiếp theo chợ, là một con phố san sát nhà gỗ, nhà ngói một tầng, có sân nhỏ phía trước. Và rồi, đoàn đi đến một chiếc cầu đá dẫn vào cổng thành phía Đông Nam. Đoàn khách Mỹ đã đi qua Chợ Vải và đi dọc con kênh cũng mang tên Chợ Vải. Từ đó khách rẽ qua con đường chạy dọc chân thành Gia Định. Đi ngược dòng từ Vũng Tàu trở lên, thành Gia Định là mô đất cao đầu tiên, so với mặt nước sông thì cao hơn chừng 20 thước. Trước đây Sài Gòn là một vùng đồi, có rừng cây bao phủ, nhưng tổ phụ nhà vua Gia Long đã cho san bằng ngọn đồi và đào hào sâu chung quanh, lấy nước sông qua các ngòi lạch dẫn vào hào. Chung quanh thành là một bức tường dày đắp bằng gạch, cao chừng 6, 7 thước. Thành hình chữ nhật, nhưng gần như vuông, mỗi bề độ ba phần tư dặm (khoảng hơn một cây số). Bên trong thành, vườn hoa ngoạn mục, ở giữa là cung điện nhà vua, có hàng rào cao vây quanh. Cung điện là một tòa nhà lớn, một chiều chừng 30 thước và chiều kia khoảng hơn 20 thước, làm bằng gạch, có hành lang bốn phía. Sàn nhà cao hơn mặt đất, lát gỗ, có cầu thang bắc lên cửa chính vào cung điện. Mái nhà lợp bằng ngói tráng men bóng lộn, đắp rồng phượng có màu sắc sặc sỡ. Hoàng Đế không hề vào thăm đất Sài Gòn từ khi bình xong nội chiến và vì thế cung điện không có ai ở, chỉ dùng để cất giữ ấn tín nhà vua và các văn thư. Trong thành có đủ chỗ để đóng tới 50 ngàn quân một cách dễ dàng. John dễ dàng nhận thấy một tòa tháp canh đồ sộ, có tầng lầu vuông vức, bên trong là một đại hồng chung (chiếc chuông lớn). Kế đến, đoàn khách được đưa đến dinh Tổng trấn cũng là một tòa nhà uy nghi, sang trọng với nhiều cột nhà sơn son bóng loáng mỹ lệ John gọi là Rosewood. Khi ra về, đoàn khách còn đi ngang một pháo đài trên mặt thành, nơi đặt nhiều đại bác lớn nhỏ. Lê Văn Duyệt, bậc khai quốc công thần của Triều Nguyễn, là Tổng trấn Gia Định từ năm 1812. Song, trong ngày đầu tiên thăm viếng, đoàn khách Mỹ đã không gặp được Lê Văn Duyệt. Vào thời điểm ấy, từ năm 1815, Lê Văn Duyệt đã được vua Gia Long triệu hồi về Huế, đảm đương nhiều việc quốc gia đại sự. Thay cho Lê Văn Duyệt, quan Tổng trấn Nguyễn Huỳnh Đức là người tiếp đoàn. Ông ân cần hỏi thăm sức khỏe các khách Mỹ, hỏi chuyện chi tiết hành trình từ Mỹ đến Việt Nam. Đoàn khách được mời uống trà, ăn mứt và kể cả dùng trầu. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Thuyền trưởng John cho biết, nước Mỹ tân lập tuy ở rất xa vẫn mong muốn buôn bán với Việt Nam. Họ đã nghe tiếng Việt Nam nổi tiếng về gạo và nhiều loại nông sản khác. Lần này, hai tàu Mỹ muốn mua nhiều nhất là đường thô và tơ lụa với số lượng lớn. Tổng trấn Nguyễn Huỳnh Đức cho biết sẽ trình báo ngay cho triều đình Huế các đề nghị này. Trong lúc chờ đợi, ông cho phép đoàn khách Mỹ ở lại Sài Gòn để tìm hiểu hàng hóa và sinh hoạt địa phương. Những ngày tiếp theo các khách Mỹ được đi lại thoải mái trong thành phố. Họ đã đi thăm nhiều đền chùa và nhà thờ và được tự do tiếp xúc với dân và cả những người nước ngoài hiếm hoi sống tại Sài Gòn. Bao gồm hai cố đạo người Ý và một nhà buôn đến từ Macao. Khách Mỹ còn được Tổng trấn Nguyễn Huỳnh Đức và các quan chức khác mời đến nhà chơi. Tại đây, lần đầu tiên người Mỹ dùng thử và mê ngay thứ rượu làm từ gạo mà John gọi là whiskey Việt Nam rượu đế. Để đáp lễ, đoàn khách Mỹ mời các quan chức Việt Nam lên tàu Mỹ cũng như mời đến nhà trọ của mình để thưởng thức ẩm thực Mỹ và phương Tây. Điều lý thú, một vị quan địa phương đã cho John xem một chai mù tạt made in England đã dùng xong và cho biết vua Gia Long rất thích mù tạt châu Âu. Thật buồn cho Giôn Trắng, khoảng thời gian 4 tháng ở lại Sài Gòn cũng là khi Tổng trấn Nguyễn Huỳnh Đức bệnh mất, tân phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý lên nắm quyền, nạn giặc Sư kế hoành hành, tình hình xã hội trở lên nhiễu nhương hơn rất nhiều khiến hình ảnh người Việt giai đoạn đó trong mắt John White vô cùng xấu xí. John không ít lần than phiền với anh thông dịch trẻ về tính tham lam hay ăn cắp vặt, và thói coi thường, xem phụ nữ như hàng hóa tại nơi đây.
Anh thông dịch trẻ kể lại với anh Tuyên:
-Giôn Trắng văn vở mà nói với tôi thế này, anh Tuyên ạ! Cũng như sự linh hoạt trong cách họ dùng đôi chân, sự khéo léo khi dùng đôi tay của họ cũng không kém phần gây chú ý. Những người làm trò tung hứng, những ảo thuật gia và những người biểu diễn nhào lộn thường hành nghề mua vui cho đám đông và cho lợi ích riêng của chính những người đó; và chúng tôi phát hiện ra, theo một cách tốn kém cho chính mình, rằng có những kẻ nếu không công khai hành nghề làm trò tung hứng thì lại chính là những chuyên gia móc túi. Hiếm có ngày nào mà không có chuyện vài người trong đoàn chúng tôi trở về tàu mới phát hiện ra là mất khăn mùi xoa, một thứ mà họ có vẻ rất thích.
-Để xem còn gì nữa nhỉ. À chúng tôi thấy bọn họ, từ những người cao sang nhất tới những người thấp hèn nhất, đều là những kẻ ăn xin gây phiền toài nhất. Họ thèm muốn theo một cách ít lịch thiệp nhất tất cả những thứ nào hợp sở thích họ, họ không hài lòng với một sự từ chối đơn giản và cũng chả hài lòng với việc có được thứ họ đã đòi mà thường trở nên thúc bách hơn nữa trong các đòi hỏi của họ theo tỷ lệ thuận với sự hào phóng của người cho, và những gì họ không có được bằng cách xin xỏ thì họ rất hay tìm cách có được bằng cách đánh cắp. Họ không có được ngay cả cái phẩm hạnh đặc trưng của người Sparta đó là biết đỏ mặt khi bị phát hiện, không có vẻ gì là họ cảm thấy e dè sự trừng phạt dành cho hành vi ăn trộm hay sự phát hiện ra nó. Thiên hướng trộm cắp này có vẻ nhan nhản, tới mức chúng tôi xem là cần thiết việc phải quan sát kỹ càng các quan chức chính quyền khi họ lên thuyền chúng tôi.
Anh Tuyên nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ hỏi:
À lại vụ ông phó Tổng trấn mới đích thân viếng thăm tàu Franklin à?
Anh thông dịch trẻ đáp:
-Đúng. Giôn Trắng tả ông ta thế này. Vị phó tổng trấn ngồi xếp chân hai bên kiểu người Á, vuốt râu trắng lưa thưa. Ông là một người già ốm, nhăn nheo, rất thận trọng, điệu bộ, mặc dù có nở nụ cười nhưng không đáng tin cậy, không cho ta thấy một điều gì công chính và thành thật. Ông ta đã trơ trẽn “mượn” khẩu súng săn hai nòng quý giá và tôi biết rằng mình sẽ vĩnh viễn mất nó.
-Mà còn nữa. Sự dửng dưng của những người đàn ông đối với danh dự và trinh tiết người phụ nữ, cũng như về tính buông thả và phóng đãng của nữ giới vốn là hậu quả của sự dửng dưng đó, không phải là những quan sát chỉ đúng với những người bình dân. Những quan sát đó cũng đúng và đúng một cách còn mạnh mẽ hơn trong trường hợp những người đứng đầu xã hội, quan chức chính quyền. Những người đàn ông này, cũng trụy lạc không kém đám quan lại Trung Hoa, thậm chí không hề mang vẻ bề ngoài đường hoàng mà các quan lại Trung Hoa cảm thấy cần thiết phải thể hiện. Trong cái sự dễ dãi mà họ có khi họ chuyển phụ nữ của họ cho những người lạ.
Anh Tuyên lại gật gù:
-Cái này tôi biết. Nói ngây như Tây dẫn phải c...ứt là sai, phải là ngây như Tây bị gạ đ...ịt thì mới đúng. Tôi cứ chết cười từ sáng tới giờ. Vì không có và không thích lúc nào cũng phải kè kè thông dịch như anh hay một thằng lau dọn, khuân vác biết chữ ta mù chữ tây như tôi, John đã cử một sĩ quan lên bờ để mua mấy con bò thiến cho thủy thủ đoàn. Giá cả đã được chốt trước là mười đô la Tây Ban Nha một con, người sỹ quan chỉ cần đếm đủ tiền để trả cho một trong các viên quan tại chỗ mua và nhận bò về. Tên quan Bật Ngưu Ôn 弼牛温, trong lúc nhận tiền, kêu hai kẻ hầu đi đâu đó. (Bật 弼là trợ giúp. Ngưu 牛 là trâu bò. Ôn 温 là ấm. Bật Ngưu Ôn ghép lại với nhau rất tối nghĩa. Nó cũng đồng âm với từ 辟牛瘟 là trừ bỏ ôn dịch cho trâu bò để lấp liếm. Ý nói đểu tên quan trông bò là đồ ôn dịch). Một lúc sau hai người hầu này quay lại mang theo một cô gái trẻ đẹp. Rồi đưa cô gái cho người sỹ quan đòi thêm tiền. Một anh chàng khác, vừa trở về từ thị trấn ven sông, bèn bị gạ gẫm bởi một bà già. Bà này ra hiệu cho anh ta đi theo bà ta vào nhà nơi bà ta cho anh thấy con gái của bà ta đang trong trạng thái rất gần với trạng thái ban đầu khi cô ta mới chào đời và đôi mắt bà già lấp lánh niềm vui khi thấy những đồng đô la Tây Ban Nha. Kết quả là hai tay sĩ quan đều đi chơi gái mất thêm tiền chứ đâu có oan như John nói. John nghĩ đó là vợ hay con gái họ thật mà không biết thật ra toàn là gái điếm.
Anh thông dịch trẻ lại nói tiếp:
-Đối với những quan lại Giôn Trắng gặp, ông ta chỉ tỏ ý khinh bỉ. Giôn kể lại rằng họ có những bộ điệu ta đây, làm ra quan trọng, nhưng cư xử như những đồ phàm tục, luôn luôn ngửa tay xin rượu Tây và uống cho đến khi say túy lúy và cãi nhau om sòm. Bọn quan lại này luôn luôn xin quà, bất cứ cái gì họ xin được của người Mỹ là họ đem về nhà. Trong sự giao dịch hành chánh thì họ vừa bất lực vừa tham nhũng, họ đớn hèn đến nỗi có thể đương kiểm tiền của người, mà ăn cắp mấy đồng nhét vội vào tay áo. Khi vị Khâm sai Lê Văn Duyệt không có mặt tại Sài Gòn thì quan chức ở đây có cái thói xấu là hay ném pháo để dọa khách khứa và mua tích trữ những số đường lớn để cho giá đường lên cao rồi đem bán cho khách ngoại quốc. Giôn Trắng còn tả hệ thống quan liêu rất phức tạp của rất nhiều viên chức. Ai muốn tới buôn bán cũng phải đút lót những viên chức ấy. Nếu không chịu lễ lạc một phần tử nào trong cả guồng máy ấy thì tức thời công việc không những bị đình trệ mà bị những hậu quả trái ngược rất rõ rệt.
Anh Tuyên trầm ngâm:
-Xem ra John chỉ còn một điều duy nhất đáng để chờ đợi. Chờ được gặp nhân vật xuất chúng nhất của thành Gia Định. Tả quân Lê Văn Duyệt. Người trước sau gì cũng sẽ về nhận chức Tổng trấn thành Gia Định lần thứ hai. Nhưng không biết là bao giờ.
Và rồi John White vẫn có may mắn được gặp Lê Văn Duyệt khi ông từ Huế trở lại Gia Định trong ít ngày. John đã hỏi dò vị Phó Vương và các cha xứ Ý về dân số Việt Nam và Sài Gòn. Qua đó, John được biết cả nước ước chừng có từ 10 – 14 triệu dân. Riêng Sài Gòn có hơn 180 ngàn dân, trong đó có mười ngàn người Hoa. Đây là một con số lớn đáng kể so với dân số thành thị nhiều nước Á Đông và ngay cả ở Mỹ thời ấy. Theo John ghi chép, dân cư Sài Gòn sống tập trung ven sông và các kênh rạch. Nhà dân có đủ nhà lá, nhà sàn các kiểu. Người giàu ở trong các nhà sàn lớn hoặc nhà ngói khang trang.
Đường sá trong thành phố đan xen thẳng thớm, nhiều đường khá rộng. Dọc theo bờ kênh hướng về miền Tây có một loạt nhà kho to lớn, nơi thuyền chở gạo lên xuống nhộn nhịp. Phía Bắc và Tây Bắc Sài Gòn là đất trống mênh mông. Có một khu lớn là đất cho nghĩa trang John ghi hẳn trên bản đồ: cemetery. Dọc con đường ra phía Tây, hàng loạt cây Palmaria loại cây cọ, cây dừa nước được trồng thẳng tắp, ngay ngắn làm John liên tưởng đến những đại lộ viền đầy cây xanh của Paris. Ông nhận xét cây Palmaria dường như là cây ưa thích nhất của người dân Việt vì dọc theo các bờ kênh đều trồng loại cây này. Là một sĩ quan hải quân, John đặc biệt quan tâm đến xưởng Chu Sư và cho biết mình đến thăm nơi đây nhiều lần. Ông miêu tả bến tàu hải quân và thủy xưởng đặt bên một con rạch lớn ở phía Đông Bắc thành phố rạch Thị Nghè. John chứng kiến thủy xưởng đang đóng hai chiến hạm theo kiểu châu Âu với sự giám sát của các chuyên gia Pháp. John cho rằng quy mô và phương tiện thủy xưởng này không khác các xưởng đóng tàu ở châu Âu. Điều làm John ngạc nhiên và thích thú cho rằng gỗ teak gỗ đóng tàu của Việt Nam cực tốt, hàng đầu thế giới. Không biết có quá lời chăng nhưng John khen người Việt Nam là most skilful naval architects những kiến trúc sư hải quân khéo giỏi nhất. Đáng chú ý hơn nữa, John nhận xét tòa thành Gia Định thành Quy mà ông gọi là Military City thành phố nhà binh, thực sự là một công trình phòng thủ vững chắc. Nó có nhiều pháo đài, nhiều đại pháo và có thể chống đỡ lâu dài với các đội quân châu Âu. (Thành Gia Định thành Quy hay thành Bát Quái được xây dựng theo kiến trúc Vauban phòng thủ. Thành Quy là một hệ thống phức hợp các công trình kiến trúc liên quan mật thiết với nhau và mang tính phòng thủ toàn diện từ tường thành, pháo đài, đài giác bảo, pháo môn, tường bắn cho đến hào thành và đường bao ngoài hào. Được tính toán kỹ về mặt sắp đặt và kích thước, khối công trình đồ sộ thành Quy ngày đó là một đô thị bất khả xâm phạm. Thật trớ trêu, chỉ 16 năm từ khi John rời Sài Gòn, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (cố thủ 3 năm 1833 – 1836 trong thành), vua Minh Mạng đã cho phá bỏ thành Quy để xây thành Phụng với quy mô nhỏ hơn. Thành Gia Định mới, thành Phụng cũng được xây dựng theo kiến trúc Vauban nhưng nhỏ hơn nhiều, dễ bị bắn phá hơn và chỉ có bốn pháo đài bốn góc so với tám pháo đài của thành Bát Quái cũ. Tường thành cao 20m dài trên 475m được làm từ đá granite, gạch và đất. Xung quanh thành có hào nước bao bọc. Có thể đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng về kỹ thuật quân sự làm cho thành Gia Định thất thủ nhanh chóng trước cuộc tấn công của người Pháp, vào năm 1859). John White đã tỏ ý rất kính phục Tả quân ngay sau lần hội diện đầu tiên. John có ghi lại: “Dáng diệu và phong độ của ông này có vẻ uy nghi lẫm liệt. Ông có vẻ một đại thần đầy kinh nghiệm nhưng vẫn giữ được đức độ cương trực của con nhà tướng. Tính tò mò muốn hiểu biết và cách thức ông lựa vấn đề đem bàn tỏ ra ông là người có đầu óc phóng khoáng, luôn luôn muốn trau dồi kiến thức. Những lời bàn chính đáng của ông trong nhiều vấn đề tỏ ra ông có một khả năng tự nhiên rất mạnh và tầm kiến thức rất rộng. Chiến sự, chính trị, tôn giáo và những phong tục tập quán của các nước Âu Tây là những vấn đề mà ông bàn cãi đến một cách chăm chú. Khi óc tò mò của ông đã được thỏa về những đặc điểm ấy, thì ông tỏ vẻ khâm phục trí thông minh, tài khéo léo và sức mạnh của “Olan” (Hòa Lan) mà nói đến Hòa Lan tức là ông muốn nói đến Âu Tây. Rồi ông xúc động, như thể lòng tự ái bị tổn thương, ông than phiền về tình trạng tương đối còn thô lậu dã man trong đất nước ông”. Nhưng bốn tháng của John White vẫn công cốc trong sự bất lực như những gì anh Tuyên đã dự đoán trước đó. Đoàn đến không mang theo “quốc thư” của Chính phủ Mỹ, cũng không có người trung gian giới thiệu nên không có cuộc đàm phán chính thức nào về quan hệ buôn bán giữa hai nước. Kế đến, mọi việc mua bán dù ở góc độ thương nhân cũng phải qua duyệt xét của vua và triều đình Huế nên càng mất thời gian chờ đợi. Thêm nữa, việc chuyển đổi đồng tiền khá phức tạp. Ở Việt Nam chỉ thông dụng đồng bạc Tây Ban Nha, do vậy khách Mỹ phải chuyển đổi từ đô la Mỹ sang tiền Tây Ban Nha, rồi mới đến tiền Quan của nước chủ nhà. Hai bên không nhất trí ngay được tỷ giá, phải thương thảo nhiều lần. Trong lúc ấy, việc phiên dịch phải thông qua tiếng Bồ Đào Nha và cũng không có người dịch chuyên nghiệp. Mặc dù vậy, trở ngại giao thương lớn nhất chính là thủ tục mua bán và tập quán làm việc của hai bên không giống nhau. Đầu tiên là việc quan nhà Nguyễn tính thuế neo thuyền theo kích thước hàng hóa mà tiêu chuẩn thước đo không nhất quán. Giữa khách và chủ phải thảo luận nhiều lần (tục du di trong khai báo hải quan thời hiện đại). Sự phiền hà khi các quan thương chánh lên tàu cứ hay đòi xem lễ vật và ngỏ ý muốn có quà. Ngoài ra, việc mua bán lại thực hiện theo kiểu giao kèo miệng, giá cả lên xuống tùy hứng. Đằng sau các trở ngại ấy, còn có một thực tế cay đắng là Việt Nam vào thời đó chưa có nhà buôn chuyên nghiệp, chưa có thương mại tự do. Các khách Mỹ chỉ gặp được các lái buôn trung gian là một vài người Hoa, hầu như họ độc quyền mua bán nhưng chính họ cũng không có sẵn nguồn hàng lớn. Trong khi đó, nhà Nguyễn không có cơ quan chuyên trách buôn bán và xuất khẩu. Triều đình khi gặp khách Mỹ cũng như khách phương Tây chỉ đặt mua vũ khí và vật dụng cho nhà vua. Trước khi dời đi, John White có than thở với anh thông dịch trẻ những lời cuối cùng:
-Sau khi gặp gỡ Khâm sai Lê Văn Duyệt, tôi nghĩ dân tộc các anh ai cũng phải cảm thấy tiếc rằng lịch sử đã không xui khiến để ngôi báu lọt vào tay ông ta, vì ông ta mới là người biết dùng quyền lực để bồi đắp sự vinh quang và hạnh phúc của dân tộc, hơn hẳn ông vua độc tài của các anh.