daosithuiimc
Senior Member
Rảnh rỗi nên em viết nhảm, mỗi ngày 1-2 chương.
Truyện này em sẽ lấy 1 vài chất liệu là nhân vật truyền thuyết, cổ tích của Việt Nam (bao gồm thần thánh, yêu ma quỷ quái), truyện là huyền sử, không có niên đại cụ thể.
Còn tên địa danh này nọ thì vui em sẽ tra cứu tử tế, chán thì em sẽ chế cháo ra.
Các thím gạch đá gì thì tùy tâm ạ.
Chương 1: Người lái đò sông Vân Cừ (Bạch Đằng Giang)
Cổ thư chép lại: “Sông Vân Cừ sâu, sông rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vót, nước suối giao lưu, sóng tung lên tận trời, cây cối lấp bờ, thực là nơi hiểm yếu. Nước ta khống chế người Bắc, sông này là yết hầu vậy”. Quả thế, mặt sông Vân Cừ ở vùng Tràng Kênh rộng hơn 3 dặm, lại là nơi hội tụ tập trung của 5 con sông: sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Giá, sông Thái, sông Gia Đước bên hữu ngạn mà đổ ra cửa Nam Triệu. Sông rộng, lại sâu, sóng nước bật tung, muốn qua lại nơi đây, phải dùng thuyền lớn.
Đã vậy, từ xưa nơi đây còn có tin đồn xuất hiện thủy quái làm hại dân thường. Đã mấy lần thuyền đi trên sông thì đều bị thủy quái làm lật, vỡ tan tành, người gần như đều chết cả. Chỉ còn thấy những bọt nước hòa lẫn máu tươi đỏ au lênh láng, tanh hôi cả một vùng. Những kẻ may mắn thoát nạn, chứng kiến đều kể lại rằng chỉ cảm giác thấy một cái bóng đen lù lù tiến tới, thân dài 5,6 trượng, còn chưa kịp định thần thì đã thấy một dòng nước xoáy hút về phía đó, kìm kẹp tay chân , xoắn chặt lại như tù binh bị bẻ quặt ra sau mà chẳng thể vùng vẫy được. Kẻ thì vào miệng thủy quái, kẻ lại ngạt thở, hoặc bị bẻ gãy tay chân bất lực mà chìm vào đáy nước. Những ai may mắn sống sót thì cả đời chẳng còn dám bén mảng đến bờ sông Vân Cừ nữa.
Từ thời còn Bắc thuộc, dân quanh vùng đã mấy lần cầu lên quan phủ, xin triều đình phái quân tiễu trừ thủy quái. Triều đình cũng ưng thuận mà phái thủy quân. Quân đóng doanh trại ngay bên bờ sông, thuyền lâu thì thay phiên nhau quần thảo, thả rọ nhốt lợn xuống sông để nhử mồi, lại làm những ngọn giáo lớn to bằng cả bắp chân, đầu giáo bịt sắt, khí thế rất lớn. Nhưng hơn một tháng trời chẳng hề thấy bóng dáng loài yêu nghiệt kia đâu, chỉ thấy cả một vùng sông nước mênh mông trắng xóa. Từ lúc có thủy quân triều đình đến trú doanh thì không còn bóng dáng thủy quái ở đâu nữa. Lâu ngày tướng sĩ đều sinh ra chểnh mảng, chẳng còn quan tâm chính sự, chỉ lo rượu thịt say sưa qua ngày, lại còn cho rằng việc thủy quái xuất hiện là hư tin do có kẻ gian thêu dệt mà ra hòng làm nhiều loạn nhân tâm, nếu bắt được sẽ thẳng tay trừng trị.
Khi thủy quân bắt đầu chuẩn bị rút đi, đúng lúc mọi người không ngờ nhất thì yêu nghiệt lại thình lình xuất hiện. Toàn thân đen bóng, có vảy, dài đến hơn 6 trượng, miệng rộng như cái thúng, răng chi chít, đỏ au nhễu máu. Mắt thì như hai khối cầu xanh biếc, sáng lập lòe, râu dài 3 thước. Nó bơi đến đâu thì làm xoáy nước đến đó, quẫy đuôi 1 cái thì sóng đánh cao đến vài trượng, hắc khí lượn lờ, tanh hôi cả một vùng sông nước. Loài yêu nghiệt chỉ cần húc vào cái thì thuyền lâu của triều đình vỡ nát tan tành, quân sĩ rơi cả xuống nước rồi làm mồi cho nó, tiếng gào thét ghê rợn thê lương, kinh hồn táng đảm, ai nấy đều bàng hoàng. Khi thủy quái rời đi, mọi thứ trở nên yên lặng trở lại thì chỉ còn huyết nhục lẫn lộn trên sông, thủ cấp, tứ chi phập phùng trôi nổi, hôn thiên ám địa. Đêm đêm thi thoảng vẫn còn nghe tiếng hồn ma gào khóc tru tréo mà bủn rủn tay chân. Triều đình từ đó cũng vội vàng rút quân, không dám trú lại nữa, bỏ mặc dân chúng tự sinh tự diệt
Cực chẳng đã, bách tính mới phải sửa soạn lễ vật hơn trăm đầu dê lợn, lập đàn ở cạnh bờ sông, cầu xin yêu quái không gia hại. Lại còn xây một cái miếu nhỏ để thờ phụng, tôn là Vân Cừ Điện Mãng Đại Vương, hàng năm đều tế bái cực kỳ long trọng. Từ đó thì bỗng nhiên sóng yên biển lặng, không còn thấy loài yêu nghiệt này xuất hiện nữa, thuyền bè bắt đầu tấp nập qua lại, lại còn mưa thuận gió hòa, vạn vật tốt tươi.
Dần dà, việc thủy quái xuất hiện ở Vân Cừ gia hại nhân mạng chỉ còn là giai thoại, mọi người đều cho rằng đó là câu chuyện do người đời thêu dệt nên. Bất quá, việc có miếu thờ Vân Cừ Đại Vương và vì sao hàng năm lại có lễ tế Vân Cừ Đại Vương thì chẳng ai lý giải được, cả sử ta và sử Ngô đều không thấy ghi chép cụ thể. Chỉ biết rằng mỗi lúc thuyền bè qua lại sông Vân Cừ, dù là đi ngang sông hay là dọc sông ra biển đều ghé lại miếu Vân Cừ Đại Vương cầu xin ngài phù hộ cho sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái, vạn sự bình an.
Chiều đông tàn. Gió bắt đầu rít từng hồi cuốn theo những đám lá rụng tung lên xào xạc. Sương dần buông mang theo cái cảm giác lạnh buốt như từng mảnh nứa sắc lẻm cứa vào da thịt. Mặt trời đã khuất sau dãy Tràng Kênh, những tia nắng cuối cùng cũng bị nuốt chửng trong bức màn đêm dày đặc đang kéo nhanh về. Sương lan xuống mặt sông Vân Cừ, khiến lòng sông vốn đã rộng nay lại càng trở nên mênh mông, hư vô mờ mịt chẳng thấy bờ.
Một chiếc thuyền nhỏ dập dềnh tiến về phía bờ. Kẻ lái đò là một người đàn ông tuổi chừng tam thập, đầu đội nón mê, vai khoác áo tơi để che sương cho khỏi lạnh, trên người mặc một bộ quần áo thô mộc nâu bạc, vải sờn cũ kỹ, nhiều chỗ đã sứt chỉ. Gương mặt gã vuông vức, quai hàm bạnh ra, da hơi xạm lại vì nắng gió, râu ria lởm chởm nhưng chẳng thể che nổi vẻ rắn rỏi cương nghị, mắt sâu, mày sắc như kiếm.
Gã họ Đàm, tên Vũ, chẳng rõ quê quán gốc gác ở đâu. Chỉ biết hơn 10 năm trước thì gã đến nơi đây, làm nghề lái đò chở người qua sông. Thuyền tuy nhỏ nhưng tay chèo lại cực kỳ vững chãi, lướt trên sóng dữ mà nhẹ dịu như bông. Những hôm mưa gió bão bùng, không ái dám đi thuyền qua sông, kẻ muốn qua sông thì chỉ có thể nhờ cậy Đàm Vũ. Thủy tính thì lại càng khỏi phải bàn cãi, đã mấy lần gã nhảy xuống sông mà cứu người khỏi chết đuối, những pha tưởng như thập tử vô sinh mà gã đều cứu được, dân quanh vùng Tràng Kênh phải đặt cho ngoại hiệu: "Tràng Kênh cự kình".
Thuyền nhỏ cập bến, Đàm Vũ gác lại mái chèo, lấy chão mà buộc thuyền nhỏ vào cọc, lững thững lên bờ. Lấy vạt áo mà lau qua mồ hôi và sương lấm tấm trên trán, thở ra một hơi, nét mặt không giấu đi vẻ phong trần mệt mỏi. Gã rút bầu rượu hồ lô giắt ở thắt lưng ra, định tu một ngụm cho ấm người nhưng chẳng còn giọt nào cả, bình đã cạn đáy tự bao giờ. Lắc lắc nhẹ bầu rượu, gã lẩm bẩm:
- Lại hết rượu rồi!
Đoạn định tiến về phía quán rượu thì bỗng nghe thấy tiếng gọi:
- Nhà thuyền có còn chở khách nữa không?
Đàm Vũ định thần nhìn lại. Thấy đứng đó là một nam nhân tuổi chừng ba mươi, đầu vấn khăn xếp, mặc áo bông lụa thêu hình hoa điểu, vô cùng tinh xảo. Mày rậm, mũi thẳng, đường nét tuấn tú lại không kém phần kiên nghị. Đôi mắt dài ẩn chứa sự diễm lệ lặng lẽ, khi nổi giận có thể bùng lên thứ lửa quyền uy khuynh đảo thế gian.
- Muộn rồi, phiền quý nhân ngày mai hãy quay trở lại hoặc tìm kẻ khác! - Đàm Vũ chắp tay, đoạn định quay người rảo bước đi.
- Để đến mai thì lại chậm trễ đại sự mất. Nhà thuyền chở tôi qua sông, xin trả 3 quan làm lễ tạ.
Đàm Vũ xua tay:
- Phiền quý nhân tìm kẻ khác. Sức tôi hèn, trời đông giá buốt, sương vụ lượn lờ chẳng thấy bờ. Vân Cừ lại hay có sóng dữ. Nếu là vào hạ tiết, tiểu nhân nào dám từ chối, nhưng giờ đã qua đông chí, quý nhân xin thứ cho tôi không thể giao phó. Mời quý nhân tìm người khác. Quý nhân đợi ở đây một lúc, biết đâu sẽ có thuyền lớn đi qua, lúc ấy quá giang sẽ tốt hơn.
Đoạn Đàm Vũ vái 1 vái rồi quay lưng đi thẳng. Đi được vài bước thì có tiếng nói lớn vọng lại từ phía sau:
- Tráng sĩ chờ kẻ hèn này qua sông, xin dâng Toái Sơn Phủ.
Đàm Vũ dừng bước, quay lại nhìn chằm chằm kẻ trước mặt, nhíu mày, hàn ý bốc lên.
Chương 2: Chuyện cũ ở sông Tô Lịch
Chương 3: Đêm qua sân trước một nhành mai
Chương 4: Phong vũ kinh kỳ (1)
Truyện này em sẽ lấy 1 vài chất liệu là nhân vật truyền thuyết, cổ tích của Việt Nam (bao gồm thần thánh, yêu ma quỷ quái), truyện là huyền sử, không có niên đại cụ thể.
Còn tên địa danh này nọ thì vui em sẽ tra cứu tử tế, chán thì em sẽ chế cháo ra.
Các thím gạch đá gì thì tùy tâm ạ.
Chương 1: Người lái đò sông Vân Cừ (Bạch Đằng Giang)
Vãn vân kiếm kích bích toàn ngoan,
Hải thẩn thôn triều quyển tuyết lan.
Xuyết địa hoa điền xuân vũ tễ,
Hám thiên tùng lại vãn sương hàn.
Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
Giang thuỷ đình hàm tà nhật ảnh,
Thác nghi chiến huyết vị tằng can.
Bạch Đằng Giang (Trần Minh Tông)
Hải thẩn thôn triều quyển tuyết lan.
Xuyết địa hoa điền xuân vũ tễ,
Hám thiên tùng lại vãn sương hàn.
Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
Giang thuỷ đình hàm tà nhật ảnh,
Thác nghi chiến huyết vị tằng can.
Bạch Đằng Giang (Trần Minh Tông)
Cổ thư chép lại: “Sông Vân Cừ sâu, sông rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vót, nước suối giao lưu, sóng tung lên tận trời, cây cối lấp bờ, thực là nơi hiểm yếu. Nước ta khống chế người Bắc, sông này là yết hầu vậy”. Quả thế, mặt sông Vân Cừ ở vùng Tràng Kênh rộng hơn 3 dặm, lại là nơi hội tụ tập trung của 5 con sông: sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Giá, sông Thái, sông Gia Đước bên hữu ngạn mà đổ ra cửa Nam Triệu. Sông rộng, lại sâu, sóng nước bật tung, muốn qua lại nơi đây, phải dùng thuyền lớn.
Đã vậy, từ xưa nơi đây còn có tin đồn xuất hiện thủy quái làm hại dân thường. Đã mấy lần thuyền đi trên sông thì đều bị thủy quái làm lật, vỡ tan tành, người gần như đều chết cả. Chỉ còn thấy những bọt nước hòa lẫn máu tươi đỏ au lênh láng, tanh hôi cả một vùng. Những kẻ may mắn thoát nạn, chứng kiến đều kể lại rằng chỉ cảm giác thấy một cái bóng đen lù lù tiến tới, thân dài 5,6 trượng, còn chưa kịp định thần thì đã thấy một dòng nước xoáy hút về phía đó, kìm kẹp tay chân , xoắn chặt lại như tù binh bị bẻ quặt ra sau mà chẳng thể vùng vẫy được. Kẻ thì vào miệng thủy quái, kẻ lại ngạt thở, hoặc bị bẻ gãy tay chân bất lực mà chìm vào đáy nước. Những ai may mắn sống sót thì cả đời chẳng còn dám bén mảng đến bờ sông Vân Cừ nữa.
Từ thời còn Bắc thuộc, dân quanh vùng đã mấy lần cầu lên quan phủ, xin triều đình phái quân tiễu trừ thủy quái. Triều đình cũng ưng thuận mà phái thủy quân. Quân đóng doanh trại ngay bên bờ sông, thuyền lâu thì thay phiên nhau quần thảo, thả rọ nhốt lợn xuống sông để nhử mồi, lại làm những ngọn giáo lớn to bằng cả bắp chân, đầu giáo bịt sắt, khí thế rất lớn. Nhưng hơn một tháng trời chẳng hề thấy bóng dáng loài yêu nghiệt kia đâu, chỉ thấy cả một vùng sông nước mênh mông trắng xóa. Từ lúc có thủy quân triều đình đến trú doanh thì không còn bóng dáng thủy quái ở đâu nữa. Lâu ngày tướng sĩ đều sinh ra chểnh mảng, chẳng còn quan tâm chính sự, chỉ lo rượu thịt say sưa qua ngày, lại còn cho rằng việc thủy quái xuất hiện là hư tin do có kẻ gian thêu dệt mà ra hòng làm nhiều loạn nhân tâm, nếu bắt được sẽ thẳng tay trừng trị.
Khi thủy quân bắt đầu chuẩn bị rút đi, đúng lúc mọi người không ngờ nhất thì yêu nghiệt lại thình lình xuất hiện. Toàn thân đen bóng, có vảy, dài đến hơn 6 trượng, miệng rộng như cái thúng, răng chi chít, đỏ au nhễu máu. Mắt thì như hai khối cầu xanh biếc, sáng lập lòe, râu dài 3 thước. Nó bơi đến đâu thì làm xoáy nước đến đó, quẫy đuôi 1 cái thì sóng đánh cao đến vài trượng, hắc khí lượn lờ, tanh hôi cả một vùng sông nước. Loài yêu nghiệt chỉ cần húc vào cái thì thuyền lâu của triều đình vỡ nát tan tành, quân sĩ rơi cả xuống nước rồi làm mồi cho nó, tiếng gào thét ghê rợn thê lương, kinh hồn táng đảm, ai nấy đều bàng hoàng. Khi thủy quái rời đi, mọi thứ trở nên yên lặng trở lại thì chỉ còn huyết nhục lẫn lộn trên sông, thủ cấp, tứ chi phập phùng trôi nổi, hôn thiên ám địa. Đêm đêm thi thoảng vẫn còn nghe tiếng hồn ma gào khóc tru tréo mà bủn rủn tay chân. Triều đình từ đó cũng vội vàng rút quân, không dám trú lại nữa, bỏ mặc dân chúng tự sinh tự diệt
Cực chẳng đã, bách tính mới phải sửa soạn lễ vật hơn trăm đầu dê lợn, lập đàn ở cạnh bờ sông, cầu xin yêu quái không gia hại. Lại còn xây một cái miếu nhỏ để thờ phụng, tôn là Vân Cừ Điện Mãng Đại Vương, hàng năm đều tế bái cực kỳ long trọng. Từ đó thì bỗng nhiên sóng yên biển lặng, không còn thấy loài yêu nghiệt này xuất hiện nữa, thuyền bè bắt đầu tấp nập qua lại, lại còn mưa thuận gió hòa, vạn vật tốt tươi.
Dần dà, việc thủy quái xuất hiện ở Vân Cừ gia hại nhân mạng chỉ còn là giai thoại, mọi người đều cho rằng đó là câu chuyện do người đời thêu dệt nên. Bất quá, việc có miếu thờ Vân Cừ Đại Vương và vì sao hàng năm lại có lễ tế Vân Cừ Đại Vương thì chẳng ai lý giải được, cả sử ta và sử Ngô đều không thấy ghi chép cụ thể. Chỉ biết rằng mỗi lúc thuyền bè qua lại sông Vân Cừ, dù là đi ngang sông hay là dọc sông ra biển đều ghé lại miếu Vân Cừ Đại Vương cầu xin ngài phù hộ cho sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái, vạn sự bình an.
Chiều đông tàn. Gió bắt đầu rít từng hồi cuốn theo những đám lá rụng tung lên xào xạc. Sương dần buông mang theo cái cảm giác lạnh buốt như từng mảnh nứa sắc lẻm cứa vào da thịt. Mặt trời đã khuất sau dãy Tràng Kênh, những tia nắng cuối cùng cũng bị nuốt chửng trong bức màn đêm dày đặc đang kéo nhanh về. Sương lan xuống mặt sông Vân Cừ, khiến lòng sông vốn đã rộng nay lại càng trở nên mênh mông, hư vô mờ mịt chẳng thấy bờ.
Một chiếc thuyền nhỏ dập dềnh tiến về phía bờ. Kẻ lái đò là một người đàn ông tuổi chừng tam thập, đầu đội nón mê, vai khoác áo tơi để che sương cho khỏi lạnh, trên người mặc một bộ quần áo thô mộc nâu bạc, vải sờn cũ kỹ, nhiều chỗ đã sứt chỉ. Gương mặt gã vuông vức, quai hàm bạnh ra, da hơi xạm lại vì nắng gió, râu ria lởm chởm nhưng chẳng thể che nổi vẻ rắn rỏi cương nghị, mắt sâu, mày sắc như kiếm.
Gã họ Đàm, tên Vũ, chẳng rõ quê quán gốc gác ở đâu. Chỉ biết hơn 10 năm trước thì gã đến nơi đây, làm nghề lái đò chở người qua sông. Thuyền tuy nhỏ nhưng tay chèo lại cực kỳ vững chãi, lướt trên sóng dữ mà nhẹ dịu như bông. Những hôm mưa gió bão bùng, không ái dám đi thuyền qua sông, kẻ muốn qua sông thì chỉ có thể nhờ cậy Đàm Vũ. Thủy tính thì lại càng khỏi phải bàn cãi, đã mấy lần gã nhảy xuống sông mà cứu người khỏi chết đuối, những pha tưởng như thập tử vô sinh mà gã đều cứu được, dân quanh vùng Tràng Kênh phải đặt cho ngoại hiệu: "Tràng Kênh cự kình".
Thuyền nhỏ cập bến, Đàm Vũ gác lại mái chèo, lấy chão mà buộc thuyền nhỏ vào cọc, lững thững lên bờ. Lấy vạt áo mà lau qua mồ hôi và sương lấm tấm trên trán, thở ra một hơi, nét mặt không giấu đi vẻ phong trần mệt mỏi. Gã rút bầu rượu hồ lô giắt ở thắt lưng ra, định tu một ngụm cho ấm người nhưng chẳng còn giọt nào cả, bình đã cạn đáy tự bao giờ. Lắc lắc nhẹ bầu rượu, gã lẩm bẩm:
- Lại hết rượu rồi!
Đoạn định tiến về phía quán rượu thì bỗng nghe thấy tiếng gọi:
- Nhà thuyền có còn chở khách nữa không?
Đàm Vũ định thần nhìn lại. Thấy đứng đó là một nam nhân tuổi chừng ba mươi, đầu vấn khăn xếp, mặc áo bông lụa thêu hình hoa điểu, vô cùng tinh xảo. Mày rậm, mũi thẳng, đường nét tuấn tú lại không kém phần kiên nghị. Đôi mắt dài ẩn chứa sự diễm lệ lặng lẽ, khi nổi giận có thể bùng lên thứ lửa quyền uy khuynh đảo thế gian.
- Muộn rồi, phiền quý nhân ngày mai hãy quay trở lại hoặc tìm kẻ khác! - Đàm Vũ chắp tay, đoạn định quay người rảo bước đi.
- Để đến mai thì lại chậm trễ đại sự mất. Nhà thuyền chở tôi qua sông, xin trả 3 quan làm lễ tạ.
Đàm Vũ xua tay:
- Phiền quý nhân tìm kẻ khác. Sức tôi hèn, trời đông giá buốt, sương vụ lượn lờ chẳng thấy bờ. Vân Cừ lại hay có sóng dữ. Nếu là vào hạ tiết, tiểu nhân nào dám từ chối, nhưng giờ đã qua đông chí, quý nhân xin thứ cho tôi không thể giao phó. Mời quý nhân tìm người khác. Quý nhân đợi ở đây một lúc, biết đâu sẽ có thuyền lớn đi qua, lúc ấy quá giang sẽ tốt hơn.
Đoạn Đàm Vũ vái 1 vái rồi quay lưng đi thẳng. Đi được vài bước thì có tiếng nói lớn vọng lại từ phía sau:
- Tráng sĩ chờ kẻ hèn này qua sông, xin dâng Toái Sơn Phủ.
Đàm Vũ dừng bước, quay lại nhìn chằm chằm kẻ trước mặt, nhíu mày, hàn ý bốc lên.
Chương 3: Đêm qua sân trước một nhành mai
Chương 4: Phong vũ kinh kỳ (1)
Last edited: