Ở đây tôi nói về Phật giáo của TQ, Phật giáo TQ cũng có cả nam truyền và bắc truyền và cả 2 cái này đều là Đại thừa, khác biệt của nam truyền và bắc truyền của TQ nằm ở vùng tiếp xúc dẫn đến khác biệt về lối ăn mặc cũng như cách hiểu giữa nam và bắc.
Huyền Trang chọn đi theo con đường Tây Vực là lối Bắc truyền.
Thời Lão tử còn sống là thời nào người ta còn chả xác định được. Chỗ bảo cùng thời Khổng tử, chỗ bảo sơ kỳ Chiến Quốc nhưng giọng văn của Đạo Đức Kinh là thời Mạt thế Chiến Quốc (cùng thời với đám Pháp gia) thì rốt cuộc thời anh căn cứ nó thế nào ?
Bà la môn giáo xuất hiện ở thời Vệ Đà hậu kỳ (1100-500 TCN), trước Mahājanapadas (thời Liệt Quốc của Ấn Độ, kết thúc sau khi đế triều Nanda thống nhất Bắc Ấn năm 345 TCN, trước cả Tần Thủy Hoàng thống nhất TQ). Hậu kỳ Vệ Đà để phân biệt với trước đó là Sơ kỳ Vệ Đà với tôn giáo chính là Vệ Đà giáo, không có kinh điển mà là tổ hợp các bài thánh ca. Mahājanapadas là thời đại phát triển rực rỡ nhất của Triết học Ấn Độ bởi bên cạnh Bà la môn giáo ở Tây Ấn thì là những chủ nghĩa duy vật khoái lạc, Avijika, Phật giáo, Kỳ Na giáo,... ở Đông Ấn. Sau Lão tử 100 năm, anh lộn à ???
Anh đọc kinh văn Bà la môn giáo chưa ?
- Isha Upanishad
- Kena Upanishad
2 cuốn này thời hậu kỳ Vệ Đà nhé
.
Hay tôi phải lùi lại, căn cứ thời Sơ kỳ Vệ Đà nhỉ ???
3 ông thần Thiên tôn kia sớm nhất cũng phải thời Đường-Tống (thời điểm nhạy cảm ghê) mà so đo được với Ấn giáo à ???
Mà tôi nói TQ bị Ấn giáo ảnh hưởng mạnh nhưng không phải bị đồng hóa bởi họ giữ được cái nền của họ, gì mà nhảy dựng lên nhỉ.