Tổng doanh thu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hơn 6,3 triệu tỷ đồng, chỉ sau khu vực doanh nghiệp dân doanh (hơn 13,5 triệu tỷ đồng). Còn doanh nghiệp nhà nước có tổng doanh thu là hơn 1,5 triệu tỷ đồng; doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước là hơn 643 nghìn tỷ đồng.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản của doanh nghiệp nhà nước là 5,64%. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản của doanh nghiệp cổ phần có vốn góp nhà nước là 6,28%. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 5,97%.Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản của doanh nghiệp dân doanh là 2,22%.
Còn xét trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước là 12,11%. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cổ phần có vốn góp nhà nước là 15,98%. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 13,64%. Trong khi đó, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp dân doanh chỉ là 6,76%.
Những số liệu trên cho thấy, doanh nghiệp dân doanh của Việt Nam vẫn còn khá yếu ớt. Song số liệu nộp ngân sách lại cho thấy đây là khu vực có đóng góp ngân sách nhiều nhất, vượt xa các khu vực còn lại, kể cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Cụ thể, số nộp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp nhà nước năm 2018 là 267.982 tỷ đồng, của doanh nghiệp cổ phần có vốn góp nhà nước là 99.729 tỷ đồng, của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 186.371 tỷ đồng và riêng doanh nghiệp dân doanh lên tới 365.422 tỷ đồng