Số phận có tồn tại nhưng Số phận không chỉ những trường hợp sinh ra đã giàu sang, sinh ra đã may mắn/ xui xẻo...
Sinh ra đã giàu sang nó thuộc phạm vi của quan hệ Nguyên nhân - Hệ quả. Tức là nếu 2 bố mẹ nỗ lực để làm giàu thì đứa trẻ họ sinh ra trong giàu sang. Vậy cái Nguyên nhân để đứa trẻ có "số" giàu là cha mẹ nó. Đứa trẻ là Hệ quả của Nguyên nhân đó. Đây k phải số phận.
Vậy Số phận là gì? Số phận là Tác động của Tạo hóa đối với 1 con người.
Tạo hóa là gì? Là hệ thống vũ trụ nơi con người sinh ra. Cụ thể ở đây Tạo hóa là hệ thống tác động qua lại của Trái Đất - Mặt Trăng - Mặt Trời.
Lưu ý: Con người sinh ra trên Trái Đất có số phận khác với cũng con người đó nhưng sinh ra ở Sao Hỏa.
Các nhà khoa học Na Uy phát hiện, những người sinh vào các thời điểm Mặt trời bình lặng có thể sống thọ hơn khoảng năm năm so với những người chào đời lúc Mặt trời hoạt động mạnh mẽ.
Kết luận trên được rút ra khi nhóm nghiên cứu xem xét các dữ liệu nhân khẩu học của những người Na Uy sinh ra trong khoảng 1676 - 1878 cùng với các kết quả ghi nhận quan sát về hoạt động của Mặt trời.
Các chuyên gia nhận thấy, tuổi thọ của những người sinh ra trong các giai đoạn hoạt động tối đa của Mặt trời (đặc trưng bằng các trận phun trào dữ dội) tính trung bình thấp hơn 5,2 năm so với những người chào đời vào thời điểm hoạt động của Mặt trời giảm tới mức tối thiểu.
Theo báo cáo nghiên cứu trên tạp chí
Proceedings of the Royal Society B, hoạt động của Mặt trời lúc chào đời làm giảm khả năng sống sót tới khi trưởng thành của con người.
1- Con người sinh ra đã được tạo hóa định mã lập trình (có thể hiểu là số phận).
2- Con người là một thực thể của vũ trụ, do âm dương kết hợp mà thành, chịu ảnh hưởng của vũ trụ trong quá trình hình thành. Mà ảnh hưởng quyết định nhất là Mặt trời và Mặt trăng.
3- Sự phát triển của đời người dựa trên cơ sở lập trình lúc hình thành và biến chuyển liên tục dưới tác động của vũ trụ.
4- Dấu ấn của vũ trụ và mã lập trình được xác định trong khoảng thời gian hình thành lấy thời điểm ra đời (ví dụ lấy ngày sinh) làm mốc.
Sử dụng định đề số 2, ta coi tác động của vũ trụ gói gọn lại gồm Trái đất Mặt trời và Mặt trăng. Mặt trời có ảnh hưởng lớn nhất, vì vậy đơn vị tính thời gian là lấy năm Mặt trời, tức một vòng quay biểu kiến của quả đất quanh Mặt trời. Mặt trăng tuy nhỏ hơn nhiều sao khác nhưng gần Trái đất nhất, nên quỹ đạo Mặt trăng (tháng Mặt trăng) cũng là thông số chính yếu.
Diễn giải định đề số 4, chúng ta coi chín tháng trong bụng mẹ và ba tháng sau ngày sinh là năm mà tạo hóa tạo nên hoàn chỉnh bộ mã lập trình, đánh dấu là tuổi số 0, là tuổi tiên thiên trời định (gần như là tuổi “mụ”của ta).
Mấu chốt để giải mã là diễn giải định đề số 3. Theo tuổi tăng lên con người sẽ thay đổi.
Những tuổi mà ở đó trạng thái của vũ trụ lặp lại trạng thái ở tuổi tiên thiên (trong phạm vi sai số), thì dù có tạo nên sự biến dịch, cũng vẫn là đồng dạng với mẫu hình như hóa đã ban tặng. Nói đơn giản đó là tuổi những thay đổi đã theo một khuôn mẫu như khi tạo hóa sinh ra, không biến đổi đột xuất. Ta gọi là tuổi Bình yên. Còn nếu ở tuổi mà trạng thái vũ trụ thay đổi so với trạng thái ở tuổi lúc sinh ra, thì con người cũng thay đổi không theo như ban sơ, ta gọi là tuổi Biến dịch. (Lưu ý: Định đề này là mấu chốt để phát triển các tính toán tiếp sau đây. Nếu không thừa nhận nó thì các phần dưới đây vô giá trị.)
Trạng thái vũ trụ của một thời điểm, ví dụ tại điểm bắt đầu của năm hình thành nên con người (tuổi số 0) được xác định bởi ba điểm: Tâm Mặt trời (S), Tâm Trái đất trên Hoàng đạo (E) và Tâm Mặt trăng trên quỹ đạo tháng (L). Hết một năm Mặt trời, Trái đất trở về điểm E còn Mặt trăng trở lại điểm nào đó, L’ chẳng hạn (xem hình 1).
Các cơ sở khoa học về vật lý thiên văn và y sinh học
Xác định trạng thái Mặt trời - Trái đất - Mặt trăng
Mặc dù con người có thể đo đạc và tính toán chính xác đến từng giây, từng mét từng radian tọa độ vũ trụ của của Mặt trời, Mặt trăng, nhưng ở đây ta chỉ cần dùng đến các quy luật thiên văn chính xác đến ngày mặt trời (Solar day) hoặc ngày thiên văn (sidereal day) là đủ. Vị trí của Trái đất so với mặt trời được đặc trưng bởi quỹ đạo Trái đất quanh mặt trời, là năm mặt trời. Một năm mặt trời có 365,2425 ngày. Con số về ngày tháng Dương Lịch (ngày tây) là chỉ thị gần đúng vị trí của Trái đất trên quỹ đạo. Vị trí của Trái đất và mặt trăng quay quanh Trái đất so với mặt trời được xác định bởi quỹ đạo của mặt trăng quanh Trái đất (có tính đến sự dịch chuyển của Trái đất quanh mặt trời), tức là tháng mặt trăng. Một tháng mặt trăng có 29,53059 ngày. Vị trí của mặt trăng trên quỹ đạo chính là ngày tháng lịch mặt trăng (như lịch của đạo Hồi). Lịch ta là âm dương lịch, cho nên ngày ta thì không chính xác hoàn toàn vì lịch ta đã hiệu chỉnh theo lịch mặt trời bằng cách tính năm nhuận.
Quan sát bầu trời, đo đạc ngày tháng, các nhà thiên văn đã khám phá ra:
a) Chu kỳ 19: 19 năm mặt trời =235 tháng mặt trăng, sai số chỉ 0.003. Nói một cách gần đúng dễ hiểu là trạng thái của bộ ba Mặt trăng-Trái đất-Mặt trời cứ 19 năm lặp lại như cũ. Chu kỳ này khá chính xác, hơn 400 năm mới lệch một ngày, cho nên trong cõi trăm năm người đời có thể coi là trùng lặp tuyệt đối. ( Vì lý do này mà trong lịch pháp, cứ 19 năm dương lịch thì trong 19 năm âm lịch tương ứng phải có 7 năm gồm 13 tháng, tức là 7 năm nhuận). Chu kỳ này có tên là Chu kỳ Meton, đặt theo tên người Hy lạp đã khám phá ra (Meton of Athen,năm 440 trước CN). Chu kỳ Meton là do hai tiểu chu kỳ (chu kỳ con) gần đúng cộng lại:
b) Tiểu Chu kỳ 8 (octaeteris): 8 năm mặt trời = 99 tháng mặt trăng, sai số 1,5 ngày, có nghĩa là cứ 5 năm thì lệch 1 ngày. Tiểu Chu kỳ này ta đặt tên là
chu kỳ ÂM.
c) Tiểu chu kỳ 11: 11 năm mặt trời =136 tháng mặt trăng, sai số 1,5 ngày, tức là cứ 7,3 năm lêch 1 ngày. Ta đặt tên tiểu chu kỳ này là
chu kỳ DƯƠNG.
Để cho dễ hiểu, nói một cách gần đúng thô sơ, trạng thái của vũ trụ được xác định bời ba con số: Năm Dương Lich, Ngày Dương Lịch (ngày Tây) và Ngày Âm Dương Lịch (ngày Ta). Ví dụ ngày tết nguyên đán Ất Mùi (1/1) năm nay là 19/2/2015, 19 năm sau tết Giáp dần cũng là ngày 19/2/2034, còn tết Bính tí 19 năm trước cũng là ngày 19/2/1996. Có nghĩa là trạng thái vũ trụ các năm này lặp lại nhau. Nhưng mà 19/2/2014 chỉ chệch một năm so với 2015 thì lại là ngày 20/1 Giáp Ngọ. Trạng thái vũ trụ không lặp lại. (Các chu kỳ 8 và 11 thì con số không hoàn toàn trùng như vậy vì năm nhuận chỉ hiệu chỉnh theo chu kỳ 19)
Quy ước về tính tuổi: Năm gốc là tuổi số 1 gồm có 9 tháng trước ngày sinh (tuổi mụ) và ba tháng sau ngày sinh (tuổi tây) (Vì thế, hãy tính là tuổi ta cho dễ nhớ, tuy không thật chính xác).
Số phận của con người do Mặt trời định sẵn?
Mặt trời có các chu kỳ hoạt động kéo dài xấp xỉ
11 năm, bắt đầu từ một thời điểm hoạt động cực điểm này tới thời điểm hoạt động cực điểm tiếp theo (Hình 2).
Thống kê còn cho thấy,
11 tuổi là tuổi mà các trẻ nam hết thời kỳ trẻ con (trung tính), chuyển sang phát triển giới tính nam.
Vì vậy
chu kỳ 11 năm được gọi là c
hu kỳ Dương, biểu hiện cho giới tính Nam.
Ảnh hưởng của Mặt trăng
Mặt trăng tuy nhỏ hơn Mặt trời nhưng gần Trái đất hơn nên ảnh hưởng của Mặt trăng tới Trái đất mạnh hơn Mặt trời. Ảnh hưởng của Mặt trăng tới Trái đất có tác động không nhỏ tới hoạt động sống của con người. Điều ai cũng biết là chu kỳ Mặt trăng xác định chu kỳ kinh nguyệt của nữ giới.
Sự phản chiếu của ánh sáng Mặt trời lên Mặt trăng cũng thay đổi theo từng thời kỳ, gọi là các
pha của Mặt trăng (Hình 3).
Tất cả những thay đổi ấy đều được phản ánh trong cơ thể sinh vật và con người. Não phản ứng rất nhạy bén trước những biến đổi đó, gây hàng loạt biểu hiện về tinh thần. Các nhà khoa học khẳng định rằng những ngày trăng non tác động khác với những ngày trăng tròn. Các nhà y học cổ Tây Tạng còn cho rằng: Các bệnh nguy hiểm như tai biến mạch máu não, bại liệt, động kinh, nhồi máu cơ tim, tâm thần kích phát thường xảy ra vào các ngày 4, 8, 11, 15, 22, 29 tháng âm lịch. Dù chưa được khẳng định đúng sai, nhưng ảnh hưởng của Mặt trăng là rất lớn và đặc biệt là phụ thuộc vào
tám pha của chu kỳ Mặt trăng.
Một thống kê đã được khẳng định là
năm thứ tám, các em gái bắt đầu phát triển giới tính nữ. Vì vậy
chu kỳ tám năm là dành cho Mặt trăng, cho nên gọi là
chu kỳ Âm, biểu hiện cho giới tính Nữ.
Thử giải mã sự lập trình của tạo hóa
Tạo hóa cho bạn
Vậy là con người sinh ra (năm số 0) tiếp theo tám năm biến dịch thì đến tuổi (hầu như) bình yên đầu tiên, tám tuổi, cũng là hết một chu kỳ Âm. Hai năm Biến dịch nữa (9, 10) sang năm 11 tuổi lại (hầu như) bình yên, hết một chu kỳ Dương. Năm 19 tuổi là hoàn thành chu kỳ Meton = ÂM+DƯƠNG, là tuổi (tuyệt đối)
bình yên, âm dương hài hòa. Có thể xác định
Tuổi Bình yên (tính chất chung cho các tuổi “hầu như” hoặc “tuyệt đối”
bình yên) của đời người theo công thức :
TUỔI BÌNH YÊN= A x 8 + D x 11, trong đó A và D là những số nguyên dương.
Những tuổi còn lại, không thể khai triển được như trên là
Tuổi Biến dịch.
Khi nào thì bước vào tuổi già tự nhiên?
Trong trăm năm đời người thì có đến 66 năm là Bình yên, đó là các tuổi:
8,11,16,19, 22, 24, 27, 30, 32, 33, 35, 38, 40, 41, 43, 44, 46, 48, 49, 51, 52, 54, 55, 56, 57, 59, 60;
62, 63, 64, 65, 66, 67, 68;
70, 71, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 87, 88, 88, 89, 90, 91, 92, 93, 94, 95, 96, 97, 98, 99, 100.
Trong 66 năm bình yên này có thể chia làm ba đoạn:
8-60 có 27 năm bình yên và khá rời rạc, là đoạn tuổi trẻ và trung niên;
62-68 có bảy năm liên tục, là đoạn cao niên;
70 -100 có 32 năm (và tiếp nữa) liên tục là đoạn tuổi già.
Tuổi 69 là tuổi đặc biệt, vì đó là năm biến dịch cuối cùng. Sau đó là mãi mãi bình yên, chỉ có già dần (lão hóa) mà thôi.
Vậy khi
70 tuổi là bước vào Tuổi già trời định. Từ 69 về trước bao gồm các giai đoạn Tuổi trẻ, Trung niên và Cao niên, gọi chung là tuổi
Tráng niên.
Những năm tháng đẹp của tuổi Tráng niên
Nói chung, những năm bình yên trong tuổi Tráng niên là những tuổi ít nhiều đều đẹp, ít phải lo lắng.
Tuổi Bình yên phân thành
Tuổi Âm thịnh,
Tuổi Dương thịnh và
Tuổi Hài hòa
D-A >0: Tuổi Dương thịnh; D-A < 0: Tuổi ÂM thịnh ; D-A=0 : Tuổi Hài hòa
Đối với cả hai giới những tuổi hài hòa đều thuận lợi: 19, 38, 57
Đối với
Nữ giới các tuổi âm thịnh là thuận lợi:
8, 16, (19),
24, 27,
32, 35, (38),
40, 43, 46,
48, 51, 54, 56, (57), 59, 62,
64, 65, 67.
Tuổi Đẹp nhất cho Nữ là các tuổi thuần âm: 8,16, 24, 32, 40, 48, 56, 64.
Với Nam giới các tuổi dương thịnh là có ưu thế hơn:
11, (19),
22, 30, 33, (38), 41,
44, 52,
55, (57) 63,
66, 68.
Tuổi Nam nhi rực rỡ nhất là các năm thuần Dương: 11, 22, 33, 44, 55, 66
Tuổi nào thì cần phải cẩn thận?
Các tuổi biến dịch không phải là hoàn toàn xấu, vì không có các sự biến dịch bổ sung thêm vào sự sắp xếp của tạo hóa thì con người không phát triển đa dạng được. Tác động của môi trường, ngoại cảnh, nội lực, ý chí… cũng không thể thiếu. Tuy nhiên có sự biến đổi mạnh thì cũng phải cẩn thận hơn.
Trong các
Tuổi biến dịch cũng có thể định lượng được sự Biến dịch bằng một số đo gọi là
mức biến dị. Theo quy luật Vật lý, với cùng một mức độ thay đổi, nếu chuỗi biến dịch liên tục càng dài thì độ biến dị càng thấp. Vì nếu có xảy ra ở một điểm thì sự biến dịch liền sau có thể sửa chữa lại. Vậy độ dài của chuỗi tuổi biến dịch liền nhau đặc trưng cho mức biến dị. Chuỗi càng ngắn thì tác động của mức biến dị càng lớn. Còn những tuổi biến dị đơn độc nói chung là dễ có những đột xuất đáng ngại của đời người, vì một khi có biến dị xảy ra thì không có chu trình biến dị liền kề để điều chỉnh mà phải chờ đến năm biến dịch gần nhất mới có cơ hội điều chỉnh.
Những năm đáng ngại là các năm đơn độc: 23, 31, 34, 39, 42, 45, 47, 50, 53, 58, 61, 69.
Rõ ràng là mức độ đáng ngại của năm đơn độc càng tăng lên khi mà khoảng cách tính đến năm biến dị gần nhất (gọi là khoảng cô đơn) càng dài. Theo cách đó thì có 3 năm như vây, gọi là năm hạn:
Năm hạn: 53, 61, 69. Do mức biến dị lớn nên 53 là năm
hạn nặng vì là năm bắt đầu có thay đổi đột biến mạnh nhất ở tuổi trung niên. Tuổi 61 đột biến bắt đầu ở cao niên nên nguy hiểm và 69 là tuổi cuối cùng của đời người có đột biến nên là rất nguy hiểm.
Năm có nguy cơ: 31, 39, 42, 47, 50, 58
Năm lưu ý: 23, 34, 45
Ngoài ra, có thể xác định đoạn tuổi nguy cơ, đó là khoảng mà hai năm có nguy cơ cách nhau gần nhất (chỉ có hai năm).
Đoạn tuổi nguy cơ: 39-42 và 47-50.
Các cột mốc của tuổi già
Từ sau tuổi 69 là chuỗi tuổi bình yên liên tục, mọi thứ mà tạo hóa đã ban tặng sẽ suy giảm (già đi) đều đều theo khuôn mẫu trời định lúc chào đời mà không đột biến. Tuy vậy cũng có những cột mốc đáng lưu ý.
Đối với cả cụ ông và cụ bà:
Mốc người già trở thành như con trẻ, 88 tuổi là đạt điểm đặc biệt, đó là điểm đồng thời thuần ÂM (tổ hợp 11 chu kỳ Âm) hoặc thuần Dương (tổ hợp tám chu kỳ Dương), không phân biệt, giống như khi mầm sống nảy sinh.
Các mốc Âm-Dương hài hòa 76 và 95 cũng đáng chú ý.
Ở ba mốc dị thường này có thể rất tốt cũng có thể rất xấu.
Đối với cụ ông
Mốc đáng ngại đầu tiên là 72 vì là hậu quả của năm nguy hiểm 61. Tiếp sau là mốc hài hòa 76, thuần Dương 77. Mốc 80 là nguy hiểm,vì đó là hệ lụy một chu kỳ dương của tuổi nguy hiểm 69. Nếu vượt qua được các mốc dị thường 88, 95 thì hy vọng đạt 99 thuần Dương, vượt qua được thì trường thọ trên trăm tuổi.
Đối với cụ bà
Mốc 77 là nguy hiểm vì là hệ lụy của tuổi nguy hiểm 69. Nhưng 76 và 77 cũng là hai mốc dị thường, có xấu có tốt, nên 77 có thể là rất nguy hiểm cũng có thể không. Tiếp sau đó chỉ còn là các mốc dị thường, cho nên nói chung cụ bà sẽ sống thọ hơn cụ ông cũng là trời định!
Chu kỳ tâm-sinh lý
Một lẽ hiển nhiên là tâm-sinh lý cũng phát triển theo các chu kỳ phát triển của con người. Tâm-sinh lý ở chu kỳ một là trung tính. Giới tính hình thành và phát triển hoàn thiện ở chu kỳ 2, tức 8-16 tuổi ở Nữ và 11-22 tuổi ở Nam. Ở giữa chu kỳ thứ hai này, nữ thập tam (13), nam thập lục (16) đều dậy thì. Muốn có hòa hợp tâm-sinh lý thì tốt nhất là Nam-Nữ cùng chu kỳ phát triển. Ví dụ lấy nhau ở chu kỳ 3, nữ trong khoảng 17-24 mà kết hôn với nam trong khoảng 22-33 là hợp lẽ trời nhất. Theo nguyên lý đó thì:
Nữ 25-32 hợp với Nam 34-44
Nữ 33-40 hợp với Nam 45-55
Nữ 41-48 hợp với Nam 56-66
Nữ 49-56 hợp với Nam 67-77
Nữ 57-64 hợp với Nam 78-88
Cũng có vẻ buồn cười nhưng đúng là trùng với thống kê y học rằng, Nữ ở tuổi 64 còn Nam thì mãi cho đến 88, tức đến chu kỳ tám của đời người, thì hoạt động sinh dục mới dừng hẳn
Thay cho lời kết
Luận thuyết trình bày trên đây là dựa trên cơ sở tính toán khoa học, không mang chút nào tâm linh, huyền bí gì cả. Một luận thuyết khoa học có đúng không, cần phải qua kiểm chứng độc lập. Ít nhất nó cũng phải giải đoán được những điều đã biết và tiên đoán được những điều chưa biết để tiếp tục kiểm chứng.
Dân gian có câu:
49 chưa qua 53 đã tới, hay
Nữ thập tam Nam thập lục. Luận thuyết nêu trên đây lý giải được tuổi cả hai khá tốt. Còn tuổi 49 dân gian cũng cho là hạn, thì tạm lý giải trong khoảng 47-50. Mà thực sự thì tuổi hạn 49 cũng du di trên thực tế.
Trong khoảng 53, 61,69 (có tính đến sai số) thì người ta nhận thấy có nhiều người từ trần ốm đau, bệnh tật nhất.
Ví dụ như biểu đồ
Nghiên cứu tử vong do ung thư vú tại các tỉnh Bắc Ninh, Lâm Đồng, Bến Tre năm 20084. Ta thấy rõ tỷ lệ tử vong rất cao ở độ tuổi 50-60 là tuổi có biến dị lớn nhất.
Các tiên đoán ở các tuổi
Biến dị, Cô đơn, hoặc
Bình yên khác có lẽ cần được kiểm chứng bằng các số liệu thống kê khoa học, xem có đúng không. Đây chỉ là những kết quả ở cấp gần đúng thấp nhất. Khi nâng cao cấp gần đúng và độ phân giải, lưu ý cả không thời gian sinh ra của từng người, ta có thể dự đoán đến chi tiết hằng tháng, hằng ngày… của từng cá thể riêng biệt. Nhiều điều bất ngờ dự đoán quy luật tương lai từng người trên cơ sở khoa học đang được chờ đợi.