dĩ nhiên tôi ko nói đó là những sáng tạo, phát minh, lập luận của riêng Marx, hoặc từ khi Marx mới có.
Ý tôi là khi Marx tiếp thu, kết hợp những tri thức tiền nhân như a đề cập, và với tri thức của riêng mình, Marx đưa ra mô hình kinh tế - xã hội - chính trị tổng quan: Chủ nghĩa Duy vật Lịch sử (cái này rõ ràng của Marx), rồi từ đó đưa ra mô hình về XHCN khoa học như ta dc học trên trường.
Marx đơn giản hóa các mô hình vận động như T - H - T'. Gọi giá trị thặng dư là một phát hiện, là đặc trưng của nền kinh tế TBCN mà trước đó chưa hề có. Bản chất nền kinh tế phong kiến - quân chủ chẳng khác gì TBCN cả. Sự vận động, thay đổi của cách nền kinh tế thế giới đầu TK20 so với hiện tại, đầu TK21 có phải là thay đổi bản chất về nền kinh tế?
Anh bàn luận lộn xộn vậy, đang nói về triết học Marx với thế giới quan duy vật và phép biện chứng (trừu tượng hóa các phạm trù để đặt các phạm trù vào trong một tổng thể, một bước nhảy vọt lớn so với siêu hình học và bản thể luận của Plato khi chỉ xét các phạm trù trong phạm vi của bản thể các phạm trù) anh nhảy sang kinh tế chính trị là sao?
Dưới đây là phần mỗ phản hồi một anh khác vào năm 2015, có thể coi là cẩm nang lý luận cơ bản được dạy ở các trường ĐH-CĐ, anh có thể xem qua nếu thấy có ích. <lời lẽ có hơi hung hăng tí thì anh bỏ qua cho>
Vài vấn đề cần làm rõ
Cho đến hôm nay vẫn có nhiều anh chị em vẫn không thẩm thấu được kiến thức đại cương của Marx-Lenin, vẫn vòng vo với những khái niệm cơ bản không làm rõ được. Chủ nghĩa xã hội là gì?, chủ nghĩa tư bản là gì?, thế nào là “Chủ nghĩa Tư Bản giẫy chết”? mà sao giẫy đâu không thấy lại chỉ thấy phát triển mạnh hơn. Bỏ qua những ngôn ngữ hàn lâm khó hiểu với phần lớn mọi người, tôi sẽ cùng làm rõ một vài điều từ những kiến thức cơ bản lượm lặt được.
Tư tưởng XHCN hay CNXH khoa học (phân biệt với các trường phái CNXH mang hơi hướng duy tâm phát sinh ở Châu Âu trước TK 19)
Huớng tới một xã hội phát triển về mọi mặt một xã hội không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động (1). Giải phóng toàn thể loài người khỏi áp bức, bóc lột, khỏi nghèo nàn lạc hậu (không đơn thuần là tìm kiếm lợi nhuận như CNTB nguyên thuỷ). Cụ thể ở đây là xây dựng một xã hội phi giai cấp, kiến tạo bình đẳng trong tất cả thành phần mà trung tâm của nó là bình đẳng trong tiếp cận tư liệu sản xuất và sở hữu tư liệu sản xuất.
Xây dựng CNXH
Sai lầm trong nhận thức của rất nhiều người là coi việc các thể chế có tên chữ “CNXH” là biểu hiện của CNXH kéo theo việc dùng các đặc điểm này để suy luận ngược cho các đặc điểm của CNXH như thường được nhắc tới bởi Liên Xô, Venezuela, các nước Đông Âu.
Để kiến tạo CNXH cần 2 yếu tố cốt lõi đi kèm đó là nền tảng tư tưởng XHCN và trình độ sản xuất ở bậc cao, khi năng suất lao động vượt xa nhu cầu của con người kéo theo sự thay đổi trong quan hệ sản xuất. Biến chuyển từ tư hữu tư liệu sản xuất sang công hữu (sở hữu xã hội ở quy mô toàn xã hội).
Về điểm thứ 2, chưa có nước nào đạt tới trình độ sản xuất bậc cao này. Sự sụp đổ của LX và các nước Đông Âu là sụp đổ của mô hình kinh tế đơn nhất, không mang tính đại diện cho nền tảng tư tưởng XHCN. Nên quốc gia XHCN là các gọi của quốc gia định hướng XHCN, đang trong quá trình xây dựng đi lên XHCN.
Vấn đề quản lý kinh tế
Đây làm một trong các vấn đề thể hiện sự yếu kém về nhận thức nhất vì câu chuyện học không tới nơi tới chốn, những kẻ hiểu biết nửa vời là những kẻ cực kỳ nguy hiểm là vậy.
1. Vấn đề kinh tế thị trường. KTTT là sản phẩm khách quan của quá trình phát của con người nói chung không phải là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản hay biểu hiện của CNTB. Từ thực tiễn, Lenin đã hiện thực hoá hình thái CNXH với hoạt động kinh tế mang tính thị trường từ năm 1921-NEP tạo ra một bài học lý luận để sau này được người Mỹ học rất thành công với chính sách New Deal, kéo nước Mỹ vượt qua Great Depression-hậu quả mang tính chu kỳ của CNTB. Các đặc điểm về chính sách kinh tế NEP sau này được cả TQ “Đại cải cách” và VN “Đổi Mới” áp dụng.
2. Trong giai đoạn sau 1929, Lx là quốc gia XHCN đầu tiên và duy nhất trên toàn thế giới, bị cả thế giới tư bản bủa vây và phát xít Đức đe doạ tấn công từ bên kia biên giới. NEP đã phải nhường chổ cho chính sách Cộng sản thời chiến hay bao cấp, tuỳ theo cách gọi. được hình thành từ thực tiễn khách quan của các quốc gia bị bao vây cấm vận, chiến tranh dẫn đến tình trạng phải thực thi các biện pháp để phát triển một quốc gia độc lập và bị cô lập.
Mô hình này mang tính chỉ huy tập trung, áp đặt theo hình chóp nón từ trên xuống, dựa trên cân đối việc phân bổ các nguồn lực nhằm taọ động lực cho phát triển toàn diện nền kinh tế, duy trì tính chiến đấu của toàn bộ máy bằng việc đảm bảo tính tự cung tự cấp của nền kinh tế trong tình thế bị cô lập, bao vây cấm vận. Mặc dù phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, nhưng hệ luỵ của mô hình bao cấp ảnh hưởng nặng nề lên năng suất lao động và hình thành các thể chế kìm hãm sự phát triển của tất cả mọi mặt gây nên sự trì trệ một thời gian dài.Đây cũng là lý do dẫn đến ngộ nhận tiếp là vấn đề đồng nhất mô hình qlkt kiểu Stalin với tư tưởng của CNXH
Các nhà nghiên cứu sau này dùng từ “Duy ý chí” tức phát triển dựa trên ý chí con người không dựa trên tính vận hành của cơ chế thị trường.
Tuy để lại những hệ luỵ lớn nhưng mô hình bao cấp đã xây dựng được hệ thống các nước XHCN (các nước đính hướng đi lên XHCN- tức đang trong quá trình xây dựng) vượt qua được nghịch cảnh trở thành các đối trọng lớn với thế giới tư bản, tiền đề cho các phong trào công nhân toàn thế giới, tạo ra các động lực cải cách trong nội bộ các nước TBCN
Chủ nghĩa tư bản giẫy chết.
Ý tại ngôn ngoại, hiểu câu “Chủ nghĩa tư bản giẫy chết, trong cơn giẫy chết sẽ tự đào mồ chôn mình” như hình tượng một thằng nghiện cào đất trong cơn quằn quại là cách hiểu ngu dốt.
2 vấn đề cần làm rõ là
1. Việc đồng nhất chủ nghĩa tư bản với các nước tư bản như Anh,Mỹ,Châu Âu là ngộ nhận nghiêm trọng dẫn tới những sai lầm tai haị trong nhận định khi dùng biểu hiện của mô hình để giải thích nền tảng tư tưởng. Một quốc gia tăng trưởng, suy tàn, sụp đổ chỉ là biểu hiện cụ thế hoá của một mô hình quản lý kinh tế. Không đại diện cho cả một nền tảng, ví dụ về Lx đã cho thấy điều đó (sự sup đổ của mô hình không đại diện cho hình thái CNXH).
2. CNTB ngày nay rất khác CNTB nguyên thuỷ lúc Marx nói, Chủ nghĩa tư bản nguyên thuỷ ở TK 19 với đầy đủ tính chất của áp bức, bóc lột, bất công của nó. Thời kỳ trước Marx, với việc bóc lột thông qua giá trị thặng dư, CNTB cướp bóc trắng trợn thành quả lao động của công nhân, các thành tựu về khoa học kỹ thuật đều hỗ trợ nhằm tăng năng suất lao động và cuối cùng là đem đến lợi nhuận cho giới chủ tư bản, các thành tựu này không được chuyển hoá vào phúc lợi của nhân công và tái phân phối lại cho toàn xã hội. Các khái niệm về phúc lợi xã hội, công đoàn hay quyền của người lao động giai đoạn này không hề được nhắc tới. Các hoạt động về chăm sóc y tế cũng gói gọn trong mục đích cuối cùng là duy trì sức lao động, bần cùng hoá công nhân và nông dân để phục vụ giới chủ tư bản. Khi đã hết giá trị, cạn kiệt sức lao động, công nhân và nông dân sẽ bị vứt ra đường, các khái niệm về lương hưu, bảo hiểm, trợ cấp hoàn toàn chưa xuất hiện.
CNTB hiện đại đã tiến hoá để thích nghi thông qua việc học hỏi và giải quyết các mâu thuẫn được đẩy lên cao từ các phong trào công nhân. Phong trào công nhân chỉ tiến triển được khi có được những lý luận từ CN Marx về một thế giới đại đồng, mặc dù đôi khi chính những người công nhân kia cũng ko chắc chắn được những lý tưởng của họ xuất phát từ đâu. Giới chủ TB giờ đây đã phải tăng lương, giảm giờ làm, nâng cao phúc lợi, chăm sóc y tế và bảo hiểm cho người lao động dưới áp lực của phong trào đấu tranh của dân lao động.
Đơn cử là ở Mỹ, tới năm 1935 sau New Deal mới hình thành nên Đạo luật Bảo Hiểm Xã Hội, và tách Công Đoàn khỏi tầm tay của giới chủ. Nền dân chủ được ca ngợi của Mỹ phải tới năm 1919 mới xác lập quyền bầu cử của phụ nữ thông qua Tu chánh án 19. Sự khốn khổ của người Mỹ gốc Phi còn phải kéo dài đến năm 1965.
Ngày nay CNTB không thể bóc lột trực tiếp giai cấp lao động thông qua giá trị thặng dư của sản phẩm, dịch vụ, các hình thức mới của hoạt động tư bản đã chuyển trọng tâm sang các hình thái khác. Từ sáu thời của J.M.Keynes, CNTB đã chuyển đổi mô hình trọng cung sang mô hình quản lý tổng cầu. Tuy nhiên mô hình quản lý tổng cầu của Keynes đã vô tình xoá bỏ một trong những đặc điểm hình thành nên “tinh thần chủ nghĩa tư bản”(3), thúc đẩy quá trình hấp hối của nó (tức tự đào mồ chôn nó, hay chính là làm cho nó không còn là chính nó nữa-sự tự phủ định). Ngày nay một số mô hình trong CNTB đã tiệm cận những giá trị được Marx đưa ra trong lý thuyết CNXH
<ngoài lề 1> Nền thần học Calvin mang các đặc điểm lý tính quan trọng, trung tâm của giáo lý của các hệ phái Puritanist,Pietist,Methodist,Quarker… của Tin Lành nói chung đã góp phần hình thành nên tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Thông qua việc nhập thế của các hình thái tu khổ hạnh của giáo lý Calvin. Từ việc xác nhận trạng thái ân sủng của Thiên Chúa, nền giáo lý này giúp hình thành nên khái niệm Beruf (Thiên hướng, Thiên chức…~~> nghề nghiệp), cộng hưởng quan hệ sản xuất đang thay đổi sau thời trung cổ đã hình thành nên các phường, hội. Tổ chức và chuyên môn hoá sản xuất ~~> tạo ra nhũng tiền đề đầu tiên của CNTB. Nền giáo lý này vẫn là trung tâm của tinh thần CNTB trong các thế kỷ tiếp theo thúc đẩy việc phát triển CNTB lên bậc cao nhất, đặc biệt là Anh,Mỹ, Đức và một phần Hà lan.
<ngoài lề 2> giai đoạn 1989, khi mô hình LX, cá nước Đông Âu đứng trên bờ vực sụp đổ, VN và TQ tiến hành cải cách, Fukuyama đã có một bài nghiên cứu với tiêu đề “Sự cáo chung của lịch sử?” (4) Tiêu đề là lược trích lại một ý niệm của Marx “chiều hướng phát triển lịch sử là một chiều hướng có mục đích được quyết định bởi những lực lượng vật chất tác động lẫn nhau và sẽ chỉ kết thúc khi đạt được xã hội cộng sản không tưởng vốn có thể giải quyết triệt để được mọi mâu thuẫn trước đó” nguyên gốc ý niệm này xuất phát từ Hegel với CM Pháp. Theo như Fukuyama sự sụp đổ của các mô hình CNXH đã thể hiện việc không thể thay thế của CNTB hay CN Tự Do theo cách gọi của Fukuyama, thách thức lớn nhất của mô hình CNTB là CNXH và CN phát xít. Tuy nhiên cũng như các triết gia phương tây khác sau Marx, rất nhiều ngộ nhận về nền tảng tư tưởng với mô hình kinh tế và thể chế dẫn đến nhận thức sai lầm của các triết gia này với tư tưởng CNXH (cùng với Karl Popper-Sự nghèo nàn của thuyết sử luận). Sai lầm khi đồng nhât việc dựng nên quyền cai trị của người lao động với bảo lực cách mạng (Marx từng nói tại Amsterdam ngày 8/9/1872: “
Bạn biết rằng các định chế, tập tục, và các truyền thống của nhiều quốc gia khác nhau phải được xem xét tới, và chúng ta không bác bỏ rằng có các quốc gia -- như Mỹ, Anh, và nếu tôi quen thuộc hơn với các định chế của bạn, tôi có lẽ sẽ thêm cả Hà Lan -- nơi những người công nhân có thể đạt tới mục đích của mình bằng các phương tiện hoà bình (do sự hoạt động mạnh mẽ của nền dân chủ)).
Kết luận: CNXH là tính tất yếu của lịch sử. Mặc dù vậy, khắp nơi trên thế giới vẫn có những thành phần mù quáng chống dòng chảy, chửi bới trong vô vọng. Giới tài phiệt thì vẫn tiếp tục sửa đổi mô hình CNTB để thúc đẩy nó phát triển lên, và càng phát triển lên thì nó càng giẫy chết để hình thành nên CNXH, quá trình này đương nhiên không hình thành nên một sớm một chiều. Quy luật vẫn luôn là quy luật, quá trình mẫu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn sẽ thúc đẩy phát triển theo hình trôn ốc với sự tích tụ về lượng tạo ra bước nhảy vọt về chất.
<Ngoài lề 3> nền kinh tế công nghệ với các mạng xã hội, các liên lết mới là một trong trong những biểu hiện cuả phương thức sản xuất XHCN, Trong mô hình này tư liệu sx được xây dựng bởi tất cả các thành phần mà không thuộc sở hữu của bất kỳ ai. Khác biệt lớn nhất là ở mô hình CNXH khoa học, nhà nước sẽ thay mặt xã hội quản lý và sử dụng các tư liệu sản xuất để thúc đẩy xã hội tăng năng suất lao động và tiến tới hình thành đầy đủ các đặc điểm của XNCN. Còn với các Big Tech công nghệ thì nắm quyền kiểm soát hoàn toàn các tư liệu sản xuất.
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, khoảng trang từ 50-300
(2) The Big Three in Economics: Adam Smith, Karl Marx, And John Maynard Keynes (New York: M.E.Sharpe), pp. 133-162
(3) Nền đạo đức tinh lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản-Max Webber(NXB Tri Thức)
(4) Francis Fukuyama (1989). “The End of History?”, The National Interest, No. 16 (Summer), pp. 3-18